CHU GIAO PHỤ NHÂN
(Nhân Trí)
Chu Giao phụ nhân là người phụ nữ mà Chu đại phu Doãn Cố gặp ở ngoại thành. Vào thời Chu Kính Vương, Vương Tử Triều do được sủng ái mà làm loạn, tranh giành ngôi vị với Chu Kính Vương. Chu Kính Vương không thể vào thành. Doãn Cố, Thiệu Bá Doanh, Nguyên Bá Lỗ theo phe Vương Tử Triều. Mùa đông năm thứ 26 thời Lỗ Chiêu Công, phe Vương Tử Triều chiến bại. Doãn Cố và Vương Tử Triều đem điển tịch của nhà Chu trốn sang nước Sở. Một thời gian ngắn Doãn Cố quay về nước, đến ngoại thành thì gặp người phụ nữ, người phụ nữ nói: “Ở trong nước thì xúi người tạo phản, sau khi trốn đi rồi không lâu lại quay về để mong được trọng dụng. Người như vậy chẳng nhẽ có thể sống được ba năm?”. Năm 29 thời Chiêu Công, quả nhiên Doãn Cố bị giết chết.
Bậc quân tử nói rằng: Người phụ nữ ở ngoại thành nhà Chu căm ghét Doãn Cố vì đã giúp Vương Tử Triều làm loạn, biết được đạo trời không phù hộ nên đã nói ra điều này, cuối cùng đúng như lời nói của người phụ nữ.
Kinh Thi có câu: “Thủ tỷ bất viễn, Hạo thiên bất thắc” (Thí dụ không xa, bày Vua rõ, lẽ của trời chẳng có sai chi) là nói việc này.
TRẦN QUỐC BIỆN NỮ
(Biện Thông)
Biện Nữ là người con gái hái dâu ở nước Trần. Tấn đại phu Giải Cư Phủ đi sứ nước Tống, trên đường đi qua nước Trần gặp người con gái hái dâu bèn chặn lại nói đùa rằng: “Nàng hát cho ta nghe ta sẽ thả nàng đi”. Biện Nữ bèn hát rằng: “Mộ môn hữu cức, phủ dĩ tư chi. Phu dã bất lương, quốc nhân tri chi. Tri nhi bất dĩ, Thùy tích nhiên hĩ (Cổng mồ có mọc cây gai, búa rìu đáng lẽ một hai chặt rồi. Chàng kia gian ác mấy mươi, nơi nơi đều biết, người người đều hay. Nhưng chàng nào chịu đổi thay, gian ngoan luống trải tháng ngày từ bao)”. Đại phu lại nói: “Hãy hát bài thứ hai”. Biện Nữ hát: “Mộ môn hữu mai, hữu hiêu tụy chi. Phu dã bất lương, ca dĩ tấn chi. Tấn dư bất cố, điên đảo tư dư (Cổng mồ có mọc cây mai, đầu cành cú vọ một hai dập dìu. Chàng kia gian ác trăm chiều, nên ta ca khúc nhắn điều thiệt hơn. Nhưng chàng nào chịu khuyên lơn, sa cơ lúc đó mới buồn nhớ ta”. Đại phu nói: “Cây mai thì còn. Còn cú vọ ở đâu?”. Biện nữ đáp: “Nước Trần là nước nhỏ, bị thống trị bởi nước lớn, do đó mà đói kém, lại thêm chiến tranh, người còn chết huống hồ là chim cú”. Đại phu khâm phục mà tha cho biện nữ.
Bậc quân tử nói Biện Nữ đoan chính lại biết ăn nói, hiền thục lại giữ lễ.
Kinh Thi có câu: “Ký kiến quân tử, lạc thả hữu nghi” (Khách người quân gặp rồi, ta cùng nghi lễ vui tươi trong lòng) là nói điều này.
NHIẾP CHÍNH TỶ
(Tiết Nghĩa)
Nhiếp Chính tỷ là chị của dũng sĩ nước Tề, tên Nhiếp Chính. Mẹ của Nhiếp Chính đã mất, chỉ còn lại một người chị gái. Vì Nghiêm Trọng Tử, Nhiếp Chính đã giết chết Tướng Quốc nước Hàn là Hiệp Lũy, và còn hạ thủ thêm mấy chục người, rồi sợ liên lụy đến chị nên trước khi mổ bụng tự tử đã tự hủy da mặt, móc mắt mình. Vì khuôn mặt của Nhiếp Chính bị hủy hoại nên khi người Hàn phơi xác ông ngoài chợ treo giải tìm tung tích vẫn không ai nhận ra. Người chị nói: “Em trai thiếp chí hiền, thương yêu sợ liên lụy đến thiếp, như vậy làm lu mờ danh tiếng của em trai thiếp, không phải ý muốn của em trai thiếp vậy”, thế rồi đến nước Hàn, khóc bên cạnh thi thể của Nhiếp Chính và nói với các quan lại rằng: “Giết Tướng Quốc nước Hàn là em trai của thiếp tên là Nhiếp Chính”, rồi chết bên cạnh em trai. Người các nước Tấn, Sở, Tề, Vệ nghe tiếng đều nói: “Không riêng Nhiếp Chính gan dạ, chị gái Nhiếp Chính cũng thuộc hàng liệt nữ”.
Bậc quân tử nói chị của Nhiếp Chính nhân nghĩa lại gan dạ, không từ bỏ cái chết làm lu mờ danh tiếng.
Kinh Thi có câu: “Tử táng chi uy, huynh đệ khổng hoài” (Việc tử vong tang tóc đáng sợ, chỉ anh em mới nhớ thương nhau) là nói điều này.
VƯƠNG TÔN THỊ MẪU
(Tiết Nghĩa)
Vương Tôn Thị mẫu là mẹ của Tề đại phu, tên Vương Tôn Cổ. Vương Tôn Cổ 15 tuổi đã theo hầu Tề Mẫn Vương. Đất nước loạn lạc, Tề Mẫn Vương trốn đi nơi khác rồi bị giết chết. Người trong nước không ai thảo phạt giặc cướp. Mẹ của Vương Tôn Cổ nói: “Sáng con đi chiều con về, mẹ tựa cửa chờ con, tối con đi mà chưa về thì mẹ ra đầu ngõ đứng chờ. Nay con phụng sự Vua. Vua thì đã trốn chạy. Con còn chưa biết Vua ở đâu. Sao lại quay về nhà?”. Vương Tôn Cổ bèn đến phố lớn nói với mọi người rằng: “Náo Xỉ làm loạn nước Tề, giết chết Đại Vương của chúng ta. Ai muốn cùng ta giết chết Náo Xỉ hãy theo ta”. Người trên phố có 400 trăm người đi theo Vương Tôn Cổ và giết chết Náo Xỉ.
Bậc quân tử nói mẹ của Vương Tôn Cổ có nghĩa lại biết dạy bảo con.
Kinh Thi có câu: “Giáo hổi nhĩ tử, thức cốc tự chi” (Con ngài lo dạy đi thôi. Việc lành đem dạy, trẻ thời giống theo) là có ý này.
TRẦN ANH MẪU
(Hiền Minh)
Trần Anh mẫu là mẹ của Hán Đường Ấp hầu Trần Anh. Ban đầu Trần Anh là lệnh sử ở huyện Đông Dương, đức hạnh làm cho mọi người tin tưởng và nghe theo. Vào thời Tần Nhị Thế, nhân dân huyện Đông Dương giết chết huyện lệnh, tụ tập mấy nghìn người, muốn lập ra người lãnh đạo nhưng chưa ai đảm nhiệm, mọi người nhớ đến Trần Anh. Lúc đầu, Trần Anh cực lực khước từ nhưng sau vì mọi người nhiệt tình nài nỉ nên đã đồng ý. Trong huyện từ đó có được hai mươi nghìn người, nhân dân muốn lập Trần Anh làm Đại Vương. Mẹ Trần Anh nói: “Từ khi mẹ vào làm dâu nhà họ Trần của con, chưa từng nghe nói Tổ tiên của con có quý nhân. Nay con đột nhiên có được địa vị cao như vậy, đây không phải là việc tốt. Chi bằng con giao hai mươi nghìn người này cho người khác, con làm thuộc hạ dưới trướng của người ấy. Nếu như việc thành thì con có thể được phong hầu, giả như thất bại thì cũng dễ bề trốn chạy, bởi vì con không phải là nhân vật đứng đầu, sẽ không ai chú ý đến con”.
Trần Anh nghe theo lời của mẹ, đem quân quy thuận Hạng Lương, được Hạng Lương phong làm Thượng Trụ Quốc, sau Hạng Lương thất bại, Trần Anh quy thuận quân Hán, lập được công lao nên được phong làm Đường Ấp hầu.
Bậc quân tử nói Mẹ của Trần Anh biết mệnh trời lại có thể giữ được tổ nghiệp, để lại phúc cho đời sau, suy nghĩ sâu xa.
Kinh Thi có câu: “Di quyết tôn mưu, Dĩ yến dực tử” (Kế mưu dài truyền cho đứa cháu, để cho con hiếu thảo yên nơi) là nói điều này.
VƯƠNG LĂNG MẪU
(Tiết Nghĩa)
Vương Lăng mẫu là mẹ của Hán Thừa Tướng An Quốc Vương Lăng. Vương Lăng vốn là một người quyền hào trong huyện ở đất Bái. Khi còn hàn vi, Lưu Bang thường coi ông như anh. Đến khi Lưu Bang khởi nghĩa ở đất Bái, Vương Lăng cũng tự mình họp bè đảng mấy nghìn người theo Lưu Bang. Hạng Vũ với Hán là nước đối địch.
Hạng Vũ bắt mẹ Vương Lăng mang vào trong quân doanh để dụ ông hàng. Sứ giả của Vương Lăng đến, Hạng Vũ sai đặt mẹ ông ngồi quay mặt về hướng Đông, muốn để dụ ông nhưng mẹ ông đã nói riêng với sứ giả rằng: “Mong Ngài chuyển lời ta cho Vương Lăng, bảo Vương Lăng hãy tận tâm phụng sự Hán Vương. Hán Vương là trưởng giả, không được vì ta mà có hai lòng, hãy nói rằng ta đã chết”. thế rồi đâm kiếm tự sát để Vương Lăng yên lòng phụng sự Hán Vương.
Hạng Vũ nổi giận nấu mẹ ông. Trí hướng của ông càng kiên cố hơn, cuối cùng với Hán Vương bình định thiên hạ, làm quan đến chức Thừa Tướng, được phong hầu, truyền tước đến năm đời sau.
Bậc quân tử nói Vương Lăng mẫu có thể xả thân để lập nghĩa, tác thành cho con của bà.
Kinh Thi có câu: “Ngã cung bất duyệt. Hoàng tuất ngã hậu” (Thân này còn chẳng được dung, nỗi sau đâu rảnh mà hòng xót xa). Nhân nghĩa của Vương Lăng mẫu để lại cho 5 đời sau.
TRƯƠNG THANG MẪU
(Nhân Trí)
Trương Thang mẫu là mẹ của Hán Ngự Sử đại phu Trương Thang. Trương Thang có tài năng và học vấn, phụng sự Hán Hiếu Vũ Đế, làm quan Ngự Sử đại phu. Trương Thang tính tình háo thắng, mẹ mấy lần trách mắng vẫn không sửa đổi. Sau quả nhiên bị Tể Tướng Nghiêm Thanh Địch với tam Trường Sử oán hận nên đã dâng thư vu cáo Trương Thang. Trương Thang bất đắc dĩ phải tự sát. Các anh em và con cái muốn làm lễ an táng long trọng. Mẹ Trương Thang nói: “Trương Thang là đại thần cho Thiên Tử, bị lời vu cáo mà chết. Sao phải an táng long trọng?”, và lấy xe bò làm xe đưa tang, quan tài của Trương Thang chỉ có áo quan mà không có quách.
Thiên Tử biết được việc này bèn nói: “Không phải người mẹ này thì không sinh được người con như này!”. Sau khi điều tra rõ chân tướng đã giết chết tam Trường Sử, Thừa Tướng Nghiêm Thanh Địch tự sát.
Bậc quân tử nói rằng mẹ của Trương Thang có thể kìm nén tình cảm để làm Vua tỉnh ngộ.
Kinh Thi có câu: “Bỉ mỹ Mạnh Khương, Đức âm bất vong) (Mạnh Khương đẹp đẽ xiết bao! Lời nàng đức hạnh, ta nào lại quên) là nói điều này.
TUẤN BẤT NGHI MẪU
(Mẫu Nghi)
Tuấn Bất Nghi mẫu là mẹ của Hán Kinh Triệu Doãn Tuấn Bất Nghi. Bà là người nhân từ lại giỏi việc dạy dỗ con cái. Sau khi Tuấn Bất Nghi làm Kinh Triệu Doãn, mỗi lần Tuấn Bất Nghi đi ra ngoài thẩm tra án trở về nhà là mẹ ông lại hỏi có thả được tù nhân nào không. Nếu Tuấn Bất Nghi đáp thả được một người bị hàm oan, tội danh không có thực thì mẹ ông sẽ rất vui, ăn cơm cũng ngon, tâm tình cũng tốt. Nếu Tuấn Bất Nghi trở về nói hôm nay không thả được tù nhân nào thì mẹ ông sẽ không vui, cũng không ăn cơm. Hành động của mẹ làm cho Tuấn Bất Nghi xử án vô cùng nghiêm khắc nhưng không tàn khốc, vô tình.
Bậc quân tử nói mẹ của Tuấn Bất Nghi có thể dùng nhân nghĩa để dạy bảo con trai mình.
Kinh Thi có câu: “Mân thiên tật uy, phu vu hạ thổ” (Cái uy bạo ngược của Trời, đã phân bổ xuống khắp nơi cõi đất) ý nói đạo trời hiếu sinh, uy đức phân bổ khắp cõi đất.
DƯƠNG PHU NHÂN
(Hiền Minh)
Dương phu nhân là vợ của Hán Thừa Tướng An Bình hầu Dương Thưởng. Khi Hán Chiêu Đế băng hà, Xương Ấp Vương lên làm Vua, vô cùng dâm loạn. Đại Tướng Quân Hoắc Quang bàn mưu với xa kị tướng quân Trương An Thế muốn phế bỏ Xương Ấp Vương để lập Vua khác. Bàn bạc đã xong bèn sai đại tư nông Điền Diên Niên đi báo với Dương Thưởng. Dương Thưởng kinh sợ, không biết nói sao, mồ hôi ra đầy lưng, cả ngày ngập ngừng không quyết được. Khi Diên Niên ra ngoài thay áo, phu nhân của Dương Thương ở sương phòng phía Đông đi lại nói với Dương Thưởng rằng: “Việc này là đại sự của đất nước. Nay Đại tướng quân bàn bạc đã xong, sai cửu khanh đến báo tin cho chàng. Nếu chàng không nhanh chóng đồng ý, đồng tâm với đại tướng quân mà do dự không quyết định được thì sẽ bị giết trước”. Diên Niên thay áo xong quay lại, Dương Thưởng với phu nhân cùng Diên Niên thảo luận đồng ý, hứa hẹn, xin nghe theo lệnh của Đại tướng quân, sau đó đã cùng nhau phế bỏ Xương Ấp Vương, lập Tuyên Đế lên làm Vua. Hơn tháng sau, Dương Thưởng mất, được truy phong làm tam thiên ngũ bách hộ.
Bậc quân tử nói Phu nhân của Dương Thưởng là người hiểu biết.
Kinh Thi có câu: “Thời bỉ thạc nữ, lịnh đức lai giáo” (Bây giờ đã lớn khôn nàng ấy, khuyên bảo ta nàng lấy đức lành) là nói điều này.
HOẮC PHU NHÂN HIỂN
(Nghiệt Bế)
Hoắc phu nhân Hiển là vợ của Hán Đại tướng quân Bác Lục hầu Hoắc Quang. Hoắc phu nhân là người hoang dâm tàn bạo, không theo phép tắc. Hoắc Quang thì trung hậu, thận trọng, được Hán Vũ Đế di chiếu phụ trợ thiếu chủ. Vào thời Hiếu Tuyên Đế, do có công lập Vua nên rất được sủng ái, quý hiển không ai bằng. Hoắc phu nhân có người con gái nhỏ tên tự là Thành Quân, Hoắc phu nhân muốn cho con gái được quý hiển, nhưng chưa tìm được cách nào. Đến khi Hứa Hoàng Hậu có mang đứa con thứ hai, trong người nhiều bệnh, Hoắc phu nhân lập kế mua chuộc y bà Thuần Vu Diễn của Hứa Hoàng hậu rằng: “Phụ nữ mang thai là việc hệ trọng, thập tử nhất sinh, nay Hoàng Hậu có mang, có thể nhân cơ hội này hạ độc để trừ khử, để cho con gái ta lên làm Hoàng Hậu, phú quý sẽ cùng hưởng”. Thuần Vu Diễn nghe theo lời của Hoắc phu nhân đầu độc Hoàng Hậu. Hứa Hoàng Hậu qua đời ngay sau khi sinh. Các thái y bị bắt giữ để điều tra xem liệu họ có chăm sóc Hoàng Hậu cẩn thận không. Hoắc phu nhân chột dạ, vội báo cho Hoắc Quang chuyện mình làm. Hoắc Quang không muốn tố cáo vợ mình, đành phải ra lệnh thả Thuần Vu Diễn. Hoắc phu nhân may áo cưới cho Thành Quân, chuẩn bị mọi vật dụng để vào cung, khuyên Hoắc Quang đưa con gái vào trong cung, quả nhiên Thành Quân được lập làm Hoàng Hậu.
Lúc này con trai của Hứa Hoàng Hậu được phong làm Thái Tử. Hoắc phu nhân giận dữ nôn ra máu, không ăn không uống, phàn nàn rằng: “Đứa bé được sinh ra ở nơi dân dã, lấy tư cách gì mà luận lập làm Thái tử? Bây giờ Hoàng Hậu sinh Hoàng Tử, Đích xuất hiển hách, lại thành Vương chăng?”. Do đó Hoắc phu nhân bàn với Hoắc Hoàng Hậu diệt trừ Thái Tử. Hoắc Hoàng Hậu đã thử làm nhiều lần nhưng bảo mẫu và nhũ mẫu đều ăn thử trước nên Hoắc Hoàng Hậu không thể hạ thủ.
Khi Hoắc Quang mất, con trai là Hoắc Vũ được tập tước làm Bác Lục hầu. Hoắc phu nhân càng ngang tàng lại xa hoa, cho xây dựng nhà cửa với quy mô lớn, lại chế tạo xe kéo với quy cách giống như xe của Vua thường dùng, rồi vẽ những hình vẽ tinh xảo, dùng gấm vóc làm đệm ngồi trên xe. Thân xe thếp vàng, bên ngoài bánh xe bọc da thuộc và sợi bông để giảm xóc tránh rung lắc. Hoắc phu nhân ngồi trên xe để thị tì dùng tơ lụa kéo chạy quanh phủ mà chơi đùa, lại dâm loạn với giám nô Phùng Tử Đô.
Tuyên Đế nghe được nhà họ Hoắc vô đạo, lại có tin đồn rằng Hoắc gia giết chết Hứa Hoàng Hậu. Hoắc phu nhân vô cùng lo sợ nên âm mưu tạo phản, muốn phế bỏ Thiên Tử rồi lập con mình là Hoắc Vũ lên làm Vua. Sau bị bại lộ, cả nhà họ Hoắc đều bị xử chém ngang lưng. Hoắc phu nhân bị xử tử giữa chợ. Hoắc Hoàng Hậu bị phế và đày vào Chiêu Đài cung.
Kinh Thi có câu: “Phế vi tàn tặc, mạc tri kỳ vưu” (Vua thành giặc bạo trên ngôi, Chẳng ai biết lỗi ấy thời bởi đâu) đây là nói Hoặc phu nhân vậy.
NGHIÊM DIÊN NIÊN MẪU
(Nhân Trí)
Nghiêm Diên Niên mẫu là mẹ của của Thái Thú Hà Nam ở Đông Hải tên là Nghiêm Diên Niên. Bà sinh được năm người con trai, đều là người làm quan, ăn bổng lộc đến hai nghìn thạch. Ở đất Đông Hải, bà có biệt hiệu là “Vạn Thạch Nghiêm Ẩu”. Diên Niên làm Thái Thú Hà Nam. Nghiêm Diên Niên là người nghiêm khắc trong việc phá án, thường xuyên giết rất nhiều người, ở Hà Nam có biệt hiệu là “Đồ Bá”. Mẹ của Diên Niên nghe nói ông giết rất nhiều người thì vội đến Hà Nam, vừa vặn thấy Nghiêm Diên Niên đang chém giết tù nhân, bà vô cùng kinh sợ, vội đến lữ quán bên ngoài thành để ở, không muốn vào thành nữa.
Nghiêm Diên Niên nghe mẹ đến thăm vội đi tìm bà, đến cửa lữ quán thì bà đóng cửa không cho gặp. Nghiêm Diên Niên vội ở bên ngoài khấu đầu van xin bà mới mở cửa. Bà trách mắng Nghiêm Diên Niên rằng: “Con may mắn được làm Thái Thú, cai trị mấy nghìn dặm, không dùng nhân nghĩa để giáo hóa nhân dân lại lấy hình phạt giết người để tỏ ra uy thế. Sao có thể làm cha mẹ của bách tính đây?”. Nghiêm Diên Niên nhận tội, dập đầu tạ tội. Bà chảy nước mắt nói: “Đạo trời thần minh, không thể giết người bừa bãi. Con sớm muộn cũng bị quả báo, ta đi chuẩn bị mộ cho con, cầu xin ông trời tha thứ tội của con”. Thế rồi bà về quê, gặp người trong dòng tộc thì đều nói lại điều này. Năm sau quả nhiên Nghiêm Diên Niên do đắc tội với người ta mà bị Hoàng Thượng xử tử. Người ở Đông Hải không ai là không khen ngợi bà là người hiền trí.
Bậc quân tử nói Nghiêm Diên Niên Mẫu nhân trí tin vào đạo trời.
Kinh Thi có câu: “Tâm chi ưu hĩ, Ninh tự kim hĩ” (Lòng ta lại bi sầu hận tủi, há lại là chỉ buổi hôm nay) là nói mẹ của Nghiêm Diên Niên vậy.
HÁN PHÙNG CHIÊU NGHI
(Tiết Nghĩa)
Hán Phùng Chiêu Nghi là Chiêu Nghi của Hiếu Nguyên Đế, là con gái của hữu Tướng quân Quang Lộc Huân Phùng Phụng Thế. Năm Nguyên Đế thứ hai, Phùng Chiêu Nghi nhập cung, ban đầu được phong là Trưởng Sử, mấy tháng sau được phong làm Mỹ Nhân. Bà sinh hạ được người con trai là Trung Sơn Hiếu Vương, sau đó Bà được phong làm Tiệp Dư, tước vị chỉ dưới Hoàng Hậu. Khi đó, sự ân sủng của Phùng Tiệp Dư không hề thua kém Phó Chiêu Nghi. Bà được đánh giá là tính tình cương trực, hào sảng nhưng cũng rất hiểu lễ nghĩa, đọc biết nhiều thứ, luôn hiền thục, ôn văn, hoàn toàn khác với các Phi tần khác.
Hán Nguyên Đế cùng hậu cung cơ thiếp, xem đấu thú ở quảng trường lớn, trong đó có Phùng Tiệp Dư và Phó Chiêu Nghi. Khi đang theo dõi trận đấu, đột nhiên một con gấu mất kiểm soát, vồ lên khán đài nơi mà Nguyên Đế đang ngồi. Tất cả quan thần lẫn cơ thiếp, trong đó có Phó Chiêu Nghi, đều nhất loạt chạy tứ tán bỏ mặc Hán Nguyên Đế, duy chỉ có Phùng Tiệp Dư xả thân mình lên chắn ngang giữa Nguyên Đế và con gấu. Con gấu sau đó bị giết bởi đội vệ binh.
Khi Nguyên Đế hỏi vì sao bà lại lao ra chắn mình, Phùng Tiệp Dư thật thà đáp: “Thần thiếp nghe nói con gấu một khi đã muốn hại ai, thì sẽ vồ lấy mục tiêu bất chấp thứ gì khác. Thần thiếp không muốn bệ hạ bị hại, đành liều mình ra ngăn. Bệ hạ quân lâm thiên hạ, không thể bị hại, dù thần thiếp có bị chết cũng đáng”. Sau lần đó, Nguyên Đế càng yêu quý Phùng Tiệp Dư hơn. Phó Chiêu Nghi mấy người đều cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Phùng Tiệp Dư được phong làm Phùng Chiêu Nghi. Khi con trai Phùng Chiêu Nghi được phong làm Trung Sơn Vương thì Phùng Chiêu Nghi được phong làm Trung Sơn Thái Hậu.
Bậc quân tử nói Phùng Chiêu Nghi dũng cảm lại có nghĩa khí.
Kinh Thi có câu: “Công chi mỵ tử, tùng công vu thủ” (Sủng thần sau trước đường đường, cùng ngài săn bắn xênh xang dập dìu).
Luận Ngữ nói: “Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã” (Thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng), Phùng Chiêu Nghi kiêm cả dũng lẫn nghĩa.
VƯƠNG CHƯƠNG THÊ NỮ
(Nhân Trí)
Vương Chương thê nữ là vợ và con gái của Hán Kinh Triệu Doãn Vương Trọng Khanh. Chương là thư sinh, học ở Trường An, cùng với vợ sống cuộc sống nghèo khổ. Một lần bị bệnh, không có chăn đắp, phải lấy rơm cỏ đan thành tấm để giữ ấm cho trâu bò để đắp. Tưởng mình sắp chết nên khóc lóc nói lời ly biệt với vợ, người vợ giận dữ mắng rằng: “Trọng Khanh! Chàng thử nói xem những người quyền quý ở kinh thành, có ai học vấn bằng chàng. Nay chàng nghèo khổ bệnh tật, tự mình không cố gắng nỗ lực mà lại than khóc, không có chí khí chút nào”. Sau Vương Chương làm quan đến chức Kinh Triệu Doãn. Cậu của Thành Đế là Đại Tướng quân Vương Phụng chuyên quyền. Vương Chương tuy được Vương Phụng tiến cử nhưng không chịu dựa vào Vương Phụng.
Lúc đó, đúng lúc có nhật thực, Vương Chương nhân đó dâng tấu nói không thể trọng dụng Vương Phụng, nếu như việc thành thì chí ít Vương Chương cũng được đề bạt. Người vợ thấy vậy ngăn lại: “Làm người phải biết sao cho đủ! Sao chàng không nhớ đến lúc chúng ta đắp rơm cỏ đan lại giữ ấm cho trâu bò rồi than khóc?”. Vương Chương nói: “Việc này không phải là người phụ nữ như nàng biết được”. Vương Chương không nghe theo lời khuyên của vợ, cố ý dâng tấu lên Hán Thành Đế. Hán Thành Đế nghĩ rốt cuộc cũng là cậu ruột của mình nên không nhẫn tâm giáng tội, thế là bỏ qua việc Vương Chương dâng tấu tố cáo Vương Phụng. Thế là Vương Chương bị Vương Phụng hãm hại bị nhốt vào ngục.
Vương Chương có một người con gái nhỏ, mới 12 tuổi, đêm đó lớn tiếng khóc than: “Hàng ngày tôi ngồi ở bên cạnh nhà tù, thường nghe thấy tù nhân đếm đến chín, nay đếm chỉ có tám. Cha ta bình thường kiên cường cương trực, người chết trước nhất định là cha của ta”. Mọi người nghe được đều không khỏi vừa kinh hãi lại bán tín bán nghi. Ngày hôm sau nghe ngóng thì quả nhiên Vương Chương đã chết. Vợ của Vương Chương dẫn con tay không mà về.
Sau khi Vương Phụng chết, Thành Đô hầu Vương Thương làm Đại Tướng quân, thương cho Vương Chương vô tội nên đã đem toàn bộ tài sản, nhà cửa bị tịch thu trả lại cho vợ con của Vương Chương.
Bậc quân tử nói vợ của Vương Chương biết thời thế, biết lúc nào nên tiến, lúc nào nên lui.
Kinh Thi có câu: “Hạo thiên dĩ úy, dư thận vô tội” (Uy nghiêm Trời đấng tối cao, Xét thì ta chẳng tội nào mảy may) là nói lạm dụng uy quyền, quan tốt không có tội lại bị đẩy xuống hố sâu.
BAN TIỆP DƯ
(Biện Thông)
Ban Tiệp Dư là con gái của Tả Tào Việt Kỵ Ban Huống, là Tiệp Dư của Hán Hiếu Thành Hoàng Đế. Bà là người hiền tài, khéo ăn nói. Mới đầu vào cung bà chỉ là Thiếu Sử, sau được sủng hạnh phong lên làm Tiệp Dư. Một lần đi ra ngoài, Hán Thành Đế định cho làm một chiếc xe rộng lớn để Ban Tiệp Dư có thể ngồi chung. Biết chuyện ấy, Ban Tiệp Dư lễ phép tâu: “Tâu Bệ Hạ! Xem những hình vẽ người xưa để lại thì các bậc Thánh Vương khi xuất ngoại, chỉ có những bậc đại thần là được phép ngồi cạnh Hoàng Đế mà thôi. Ba đời mạt chúa Hạ Kiệt, Thương Trụ, Chu U Vương mới có Phi tử được sủng hạnh ngồi cạnh, cuối cùng thì rơi vào cảnh mất nước nhà tan. Nếu thiếp ngồi chung xe với Bệ Hạ thì chẳng phải giống họ sao, có thể không làm cho người ta kinh hãi sao?”. Lời tâu của Ban Tiệp Dư rất có đạo lý, nên Hán Thành Đế phải hủy bỏ ý định ấy.
Thái Hậu nghe chuyện, rất lấy làm tâm đắc, cất lời khen: “Thật là hiếm có! Xưa có Phàn Cơ, nay có Ban Tiệp Dư!”. Ban Tiệp Dư rất thích đọc Kinh Thi và các sách cổ học khác như Đức gia, Yểu điệu hay Nữ sư, và thường đọc đi đọc lại nhiều lần.
Tuy tài đức như thế nhưng Ban Tiệp Dư không được sự sủng ái lâu bền của Hán Thành Đế. Từ năm Hồng Gia đã ít vào hậu cung, do vậy Ban Tiệp Dư tiến cử Thị giả tên là Lý Bình lên. Bình được phong Tiệp Dư, còn được cho đổi thành họ Vệ theo cố sự của Vệ Tử Phu. Sau khi hai chị em Triệu Phi Yến nhập cung, dùng trăm phương nghìn kế tranh giành sự sủng ái của Hán Thành Đế. Ban Tiệp Dư là người an phận thủ thường, không tranh với đời thì chị em họ Triệu thị dùng nhan sắc và thủ đoạn để quyến rũ Thành Đế.
Năm Hồng Gia thứ 3, chị của Hứa Hoàng Hậu là Hứa Yết bị Vương Thái Hậu định tội buông lời nguyền rủa trong cung. Nhân sự tình đó, hai chị em Triệu Phi Yến tố cáo Hứa Hậu và Ban Tiệp Dư đồng lõa rước Vu thuật lập đàn tràng để trù ếm. Hán Thành Đế tức giận, phế truất Hứa Hoàng Hậu và gọi Ban Tiệp Dư đến tra vấn.
Khi trình diện Hoàng Đế, Tiệp Dư Ban thị không lộ chút sợ sệt, tâu: “Thần thiếp nghe rằng tử sinh có mệnh, giàu nghèo do trời. Người làm lành còn chưa biết có được hưởng phước không, huống nữa là chuyện sai quấy ấy? Nếu quỷ thần có sự hiểu biết, chắc chắn quỷ thần sẽ không bao giờ nghe những lời xin xỏ hại người. Nếu quỷ thần chẳng có sự hiểu biết, những lời trù ếm phỏng có ích gì? Chuyện Bệ Hạ hỏi, thần thiếp chẳng những không dám làm, mà còn chưa bao giờ nghĩ đến nữa!”. Trước thái độ ung dung và thanh thản của nàng, Hán Thành Đế tin tưởng và khâm phục, không những không bắt tội mà còn ban thưởng trăm cân vàng.
Nhưng Ban Tiệp Dư tự thấy phải mau rời xa nơi này mới yên thân, liền xin cho đến Trường Tín cung của Thái Hậu để hầu hạ và được Hán Thành Đế phê chuẩn. Ban Tiệp dư lui về ở Đông cung, làm ra bài tự điệu phú rằng: “Thừa tổ khảo chi đức hề, hà tính mệnh chi thục linh. Đăng bạc khu ư cung quyết hề, thống hạ trần ư hậu đình. Mông thánh hoàng chi ốc huệ hề, đương nhật nguyệt chi thịnh minh. Dương quang liệt chi hấp hách hề, phụng long sủng ư tăng thành. Ký quá hạnh ư phi vị hề, thiết thứ kỷ hô gia thời. Mỗi ngụ mị nhi lụy tức hề, thân bội ly dĩ tự tư. Trần nữ đồ nhi kính giám hề, cố nữ sử nhi vấn thi. Bi thần phụ chi tác giới hề, ai bao, diễm chi vi vưu. Mỹ Hoàng, Anh chi nữ Thuấn hề, vinh nhiệm, Tự chi mẫu Chu. Tuy ngu lậu kỳ mị cập hề, cảm xá tâm nhi vong tư? Lịch niên tuế nhi điệu cụ hề, mẫn phồn hoa chi bất tư. Thống dương lộc dữ giá quán hề, y tùng bách chi dư hưu”. Trùng viết: “Tiềm huyền cung hề u dĩ thanh, ứng môn bế hề cấm thát côi. Hoa điện trần hề ngọc giai đài, trung đình thê hề lục thảo sinh. Quảng ốc ấm hề xiêm duy yểm, phòng long hư hề phong linh linh. Cảm duy thường hề phát hồng la, phân tụy sế hề hoàn tố thanh. Thần diệu diệu hề mật tĩnh xứ, quân bất ngự hề thùy vi vinh? Phủ thị hề đan trì, tư quân hề lý kỳ. Ngưỡng thị hề vân ốc, song thế hạ hề hoành lưu. Cố tả hữu hề hòa nhan, chước vũ thương hề tiêu ưu. Duy nhân sinh hề nhất thế, hốt nhất quá hề nhược phù. Dĩ độc hưởng hề cao minh, xứ sinh dân hề cực hưu. Miễn ngu tinh hề cực lạc, dữ phúc lộc hề vô kỳ. Lục y bạch hoa, tự cổ hề hữu chi”. (Ta thừa kế mỹ đức của tổ tiên và cha chú! Trước sau giữ gìn phẩm đức cao thượng. Tấm thân hèn mọn này may mắn được tuyển vào cung, bổ sung hàng ngũ Phi tần ở hậu cung. Nhờ ơn hậu của Thánh Hoàng, được tắm trong ánh sáng rực rỡ của nhật nguyệt. Hiển lộ sự vinh hiển của tổ tiên và gia tộc giòng họ Ban, ở Tăng thành được Hoàng Thượng sủng ái, được sự đãi ngộ hơn mong đợi của mình, đây là thời gian vui vẻ nhất của đời ta. Ta trong giấc ngủ thường than thở không thôi, tay cầm chiếc khăn âm thầm trầm tư, hướng về những bức tranh mỹ nữ được treo trong cung, cầm gương soi bên này rồi soi bên kia, thường xuyên quay đầu lại hỏi người nữ thị tì bên cạnh những vấn đề. Đáng tiếc cho giới luật phu nhân không thể can dự triều chính. Đáng buồn cho những lỗi lầm của Bao Tự, Diêm thê đã phạm phải. Ta ca ngợi mỹ đức của vợ Vua Thuấn là Nga Hoàng, Nữ Anh. Noi theo tấm gương của mẹ Chu Văn Vương là Thái Nhậm và Chu Vũ Vương là Thái Tự. Tuy nói ta ngu muội thô thiển theo không kịp sự đẹp đẽ hiền thục của họ, nhưng sao lại dám bỏ đi lòng trung thành mà quên đi ân điển sủng ái của Thánh Hoàng. Nhiều năm nay ta thường lo sợ bất an, lo cho tuổi xanh không thể tiếp diễn, thương cho cơ ngộ dương lộc trong cung Phi tần, từ lúc tuổi trẻ đã gặp phải tai họa của sự đố kỵ, chẳng nhẽ là ta đã gây ra tai họa không thể tha thứ? Trong mệnh đã định nguyện ước xưa của ta không thể cưỡng cầu. Ánh nắng đột nhiên chiếu đi nơi khác, thế là hoàng hôn đã xuống, trước mắt một màn u tối. Ta vẫn được ân trạch che chở, trong lòng đầy ắp phúc lộc. Thực sự không muốn vì có tội và lỗi lầm mà để mất đi phúc đức. Cam nguyện ở Đông cung hầu hạ bên cạnh Thái Hậu, tự xin xếp hàng cuối cùng của cung nữ trong Trường Tín cung. Cùng với cung nữ ngày ngày dọn dẹp phòng ngủ của Thiên Tử, đến ngày cuối cùng của cuộc đời đến lúc chết. Chỉ mong đem hài cốt của ta mai táng dưới chân núi, để mộ của ta dựa vào dưới tùng bách. Lãnh cung ẩn cư u tối lại lạnh lẽo, cửa lớn không bao giờ mở cửa phụ cũng đóng kín. Cung điện hoa lệ với bậc thềm xây bằng gạch ngọc cũng đã phủ đầy bụi. Tòa nhà chính hoang vu cỏ xanh mọc đầy. Sảnh lớn rộng lớn sao lạnh lẽo quá, phòng ngủ càng thêm âm u. Cửa sổ mục nát gió lạnh thổi vù vù không ngừng, bùi ngùi nhớ lại áo lụa và màn trướng của Thiên Tử còn lấp lánh. Khi vải lụa trắng tung bay, phảng phất vọng lại tiếng ma sát của quần áo. Ánh mắt đờ đẫn nhìn chằm chằm vào mật thất, Hoàng Thượng không đến nữa rồi! Vậy còn vì ai mà bày biện ở đây? Cúi nhìn bậc thềm đỏ trước điện, nhớ đến dấu chân của Hoàng Thượng lưu lại. Ngước nhìn cung điện lạnh lẽo, không kìm lòng hai hàng lệ tuôn rơi. Ngó sang hai bên từng khuôn mặt hòa nhã, cũng đành nâng chén rượu tinh xảo dùng rượu giải sầu. Một kiếp nhân sinh ơi! Giống như mây trời vội vàng bay qua. Mình ta đã được hưởng sự cao quý rực rỡ của nhân gian, sống ở nơi tốt nhất trong mắt của người dân thường. Ta tự động viên là phải biết vừa lòng với số phận, tận tình vui vẻ với vinh hoa phú quý không nơi tận cùng. Bài thơ “Lục Y” và “Bạch Hoa” trong Kinh Thi là sự gợi mở từ xưa của quý phu nhân bị thất sủng”.
Khi Hán Thành Đế băng hà, Ban Tiệp Dư tình nguyện đến lăng tẩm của Hán Thành Đế là Đình Lăng. Bà sống cuộc sống giản đơn đầy đạo hạnh cao khiết như một đạo nhân, bỏ mặc ngoài tai mọi chuyện tranh giành quyền lực, xem thường phú quý công danh, thệ nguyện suốt đời lo việc hương khói cho Thành Đế. Sau khi Ban Tiệp Dư mất thì được chôn cất trong khuôn viên Đình lăng của Hán Thành Đế.
Bậc quân tử nóiLời lẽ Ban Tiệp Dư từ chối ngồi cùng xe vượt qua cái chí của Tuyên hậu, tiến cử Lý Bình lên bằng cấp với mình là cái đức của Phàm Cơ, giải thích khi bị vu khống là cái trí của Định Khương, xin được đến Trường Tín cung để hầu hạ Thái Hậu là cái hạnh của Quả Lý. Làm ra bài phú, bi ai nhưng không bi thương, bằng lòng với số phận mà không oán thán.
Kinh Thi có câu: “Hữu phỉ quân tử. Như thiết như tha. Như trác như ma. Sắt hề! Hạn hề! Hách hề! Hoán hề! Hữu phỉ quân tử, Chung bất khả huyến hề!” (Có người quân tử tài ba, như lo cắt dũa để mà lập thân. Dồi mài dốc chí siêng cần. Xem người thận trọng thêm phần nghiêm trang. Hiển vinh danh tiếng rỡ ràng, có vua văn nhã hiên ngang đây rồi. Rốt cùng dân chẳng quên người) là để nói Ban Tiệp Dư vậy.
TRIỆU PHI YẾN TỈ ĐỆ
(Nghiệt Bế)
Triệu Phi Yến tỉ đệ là con gái của Thành Dương hầu Triệu Lâm, là cơ tần sủng ái của Hiếu Thành Hoàng Đế. Lúc Phi Yến mới sinh ra, cha mẹ định bỏ rơi nhưng sau ba ngày vẫn sống nên lại đem về. Hiếu Thành Hoàng Đế thường vi hành ra ngoài, khi đến Hà Dương chủ uống rượu xem hát trông thấy Phi Yến thì say mê bèn đem Phi Yến về hậu cung, ngày đêm sủng hạnh. Nghe nói em gái Phi Yến là Triệu thị cũng rất xinh đẹp diễm lệ, Hán Thành Đế cũng cho triệu vào. Sau khi hai chị em Triệu thị nhập cung, Hán Thành Đế càng không ngó ngàng đến các Phi tần mà chỉ ngày đêm đắm chìm hưởng lạc cùng chị em họ Triệu, phong cả hai là Tiệp Dư, lại phong cho cha của Phi Yến là Thành Dương hầu. Không lâu sau đó, Hoàng Đế lập Phi Yến làm Hoàng Hậu, phong cho em gái làm Chiêu Nghi. Mặc dù trở thành Hoàng Hậu nhưng không lâu sau Triệu Hoàng Hậu bị thất sủng. Hán Thành Đế say mê em gái của Hoàng Hậu là Triệu Chiêu nghi.
Nơi ở của Triệu Chiêu Nghi là Chiêu Dương cung, cực kì xa hoa. Trong đình lấy sắc màu đỏ son, sơn mới hoàn toàn, ngưỡng cửa thì lấy đồng thau trang sức, lại cũng tô hoàng kim lên, cầu thang lên điện thì lấy bạch ngọc mà làm, đồng thời khảm nhập Lam Điền tường ngọc, minh châu, thúy vũ, sự xa xỉ này là bậc nhất khi đó trong các cung. Tuy được sủng ái như vậy, song Triệu Chiêu Nghi không hề mang thai, cả Triệu Hoàng hậu cũng vậy. Triệu Chiêu Nghi tính cách đố kỵ với hậu cung vì không thể sinh con. Khi đó, Hứa mỹ nhân được Hán Thành Đế sủng ái, sinh ra Hoàng Tử. Triệu Chiêu Nghi nói với Thành Đế rằng: “Bệ Hạ hay cùng thiếp đến Trung cung. Thế vị Hứa mỹ nhân kia là từ đâu tới?”. Sau đó, Triệu thị bèn bỏ ăn bỏ uống, tự đâm đầu vào cột cung điện, hoặc lăn từ giường xuống sàn, khóc lóc thảm thiết khiến Thành Đế sốt sắng cả lên. Triệu thị nói: “Bệ Hạ sau này muốn an trí thần thiếp thế nào thì tùy Bệ hạ, Thần thiếp không dám trái”. Thành Đế khổ sở nói: “Ta cố ý nói việc này cho nàng nghe. Nàng còn lại giận dữ vì điều chi nữa chứ?”. Sau đó Thành Đế cũng không thiết ăn uống gì. Thấy thế, Triệu thị bèn nói: “Bệ Hạ còn có mặt mũi nào tuyệt thực! Xưa kia Bệ Hạ thề độc với thiếp rằng: ‘Hứa không phụ nàng’. Bây giờ vị mỹ nhân kia có Hoàng Tử nên ngài thất hứa với thiếp. Đáng gọi là gì đây!”, sau đó khóc lóc thảm thiết. Hán Thành Đế không muốn thấy sủng phi của mình đau lòng, bèn nói: “Ta hứa với Triệu thị, không lập với Hứa thị! Trên đời này không ai có thể vượt qua nàng trong lòng ta! Nàng yên tâm!”. Sau đó, Hán Thành Đế sai người giao cho Hứa mỹ nhân một phong thư xanh, bảo giao Hoàng Tử cho mình. Hứa mỹ nhân bèn theo thư mà giao đứa trẻ ra, liền bị Hán Thành Đế sai người bóp chết cho tắt thở. Triệu Chiêu Nghi cũng nhìn xem cùng, sau đó cho người vội vàng mai táng ở dưới Ngục viên.
Lại sau đó, có Trung cung sử là Tào Cung, tự Vĩ Năng, được Hán Thành Đế lâm hạnh cũng sinh Hoàng tử. Hán Thành Đế cũng lại đem nói với Triệu Chiêu Nghi, biết được là con trai thì cũng đem giết. Dịch đình Ngục thừa tên Tịch Vũ khuyên can, Thành Đế không nghe. Nhưng Tào Cung chưa chết, Chiêu Nghi cũng giận, thế là Thành Đế bèn sai người đưa thuốc độc kèm phong thư đến bảo Tào Cung tự sát. Tào Cung khóc mắng: “Dung túng hai chị em bọn họ, cuối cùng kết cục thế này đây! Con ta chào đời chỉ vừa mới mọc tóc, bây giờ đang ở đâu rồi? Hay đã bị hai chị em họ giết chết rồi?”, sau đó bèn uống thuốc độc tự sát. Từ đó về sau khi các Phi tần có con trai thì đều bị giết chết hoặc cho uống thuốc để sảy thai. Do vậy mà Hiếu Thành Hoàng Đế tuyệt tự.
Bậc quân tử nói Sự hung ác của Triệu Chiêu Nghi giống như Bao Tự. Sự mê loạn của Hiếu Thành Hoàng Đế giống với Chu U Vương.
Kinh Thi có câu: “Trì chi kiệt hĩ, bất vân tự tân. Tuyền chi kiệt hĩ, bất vân tự trung” (Ao đã cạn nước đi rồi, không hề nói nước bờ ngoài chẳng vô. Nguồn mà dòng nước cạn khô, nước không lượn nữa, chẳng cho vì là). Thời Hiếu Thành Hoàng Đế, Cữu thị chuyên bên ngoài, Triệu thị chuyên bên trong, tự mình làm cạn kiệt mình, giống như ao và nguồn vậy.
HÁN HIẾU BÌNH VƯƠNG HẬU
(Trinh Thuận)
Hán Hiếu Bình Vương hậu là con gái của An Hán công, Thái Phó, Đại Tư Mã Vương Mãng, là Hoàng Hậu của Hiếu Bình Hoàng Đế. Bà là người dịu dàng có tiết hạnh. Khi Hiếu Bình Hoàng Đế lên ngôi Vua, Vương Mãng được phong làm nhiếp chính. Vương Mãng học theo cách của Hoắc Quang, tìm cách đưa con gái vào cung làm Hoàng hậu của Hiếu Bình Hoàng Đế. Vương Mãng tiến hành gả con gái cho Hiếu Bình Hoàng Đế. Thái Hoàng Thái Hậu Vương Chính Quân sai Trường Lạc Thiếu phủ Hạ Hầu Phiên, Tông chính Lưu Hoành, Thượng thư lệnh Bình Yến cùng đến Vương phủ làm lễ nạp Thái. Các đại thần hồi tấu, khen ngợi con gái Vương Mãng phẩm đức cùng dung mạo, còn phái Thái sư Khổng Quang, Tư đồ Mã Cung, Đại tư không Chân Phong, Tả tướng quân Tôn Kiến, Chấp kim ngô Doãn Thưởng, Hành Thái Thường sự Đại trung đại phu Lưu Hâm… bốn mươi người mặc trang phục da, hành lễ xem bói, tế miếu cáo tổ. Các đại thần tấu bói toán kết quả là cát lợi. Vì thế đợi ngày tốt làm đại lễ thành hôn giữa con gái Vương Mãng và Hiếu Bình Hoàng Đế, phái Đại tư đồ Mã Cung, Đại tư không Chân Phong, Tả tướng quân Tôn Kiến, Hữu tướng quân Chân Hàm, Đại trung đại phu Lưu Hâm phụng thừa Dư giá, đến Vương Mãng phủ đệ nghênh đón con gái của Vương Mãng nhập cung. Mã Cung cùng Lưu Hâm trình lên “Hoàng Hậu ấn tỉ”, được đặt trên dải lụa, chọn ngày lành tháng tốt từ Diên Thọ môn ở Thượng Lâm uyển, đi đến trước Vị Ương cung. Con gái của Vương Mãng chính thức được sách lập thành Hoàng Hậu.
Quần thần vào chỗ hành lễ, đại xá thiên hạ. Hoàng Hậu lập được hơn một năm thì Hiếu Bình Hoàng Đế băng hà. Mấy năm sau Vương Mãng soán ngôi nhà Hán. Hán Hiếu Bình Vương Hậu tính khí kiên cường và không bằng lòng với hành động cướp ngôi của cha mình, vẫn giữ lòng trung thành với nhà Hán. Bà thường cáo bệnh và từ chối tham dự yến tiệc cùng Phụ Hoàng. Vương Mãng đã thay đổi sắc phong hiệu của bà thành Hoàng hoàng thất chúa, chấm dứt mối quan hệ chính thức của bà với nhà Hán. Vương Mãng dự định cải giá con gái mình với con trai của một trong những đại thần trong triều là Tôn Kiến. Ông chỉ thị cho con trai Tôn Kiến ăn mặc bảnh bao và đi cùng các thái y đến thăm Hoàng Hoàng thất chủ. Hán Hiếu Bình Vương Hậu tức giận và đã phạt roi người hầu của bà. Do bị bệnh không chịu dậy, Vương Mãng cũng không dám ép bà tái giá nữa. Đến khi quân nhà Hán tấn công Vương Mãng, đốt cháy Vị Ương cung, bà nói: “Sao còn mặt mũi nào gặp lại nhà Hán!”, thế rồi nhảy vào lửa tự vẫn.
Bậc quân tử nói: Hán Hiếu Bình Vương Hậu tiết hạnh trung trinh hiền thục, không vì sự sống chết mà thay đổi ý chí, có thể nói là người không bôi nhọ tiết hạnh.
Kinh Thi có câu: Đãm bỉ lưỡng mao. Thực duy ngã nghi. Chi tử thỉ mỹ tha (Trái đào để tóc rủ đôi. Thật thì người ấy với tôi là chồng. Đã thề đến chết một lòng) là nói việc này.
CANH THỦY HÀN PHU NHÂN
(Nghiệt Bế)
Canh Thủy Hàn phu nhân là phu nhân của Canh Thủy đế Lưu Thánh Công. Hàn phu nhân là người gian tà nịnh hót, phẩm hạnh không đoan chính lại thích uống rượu, không lễ phép. Cuối thời của Vương Mãng, khởi nghĩa Lục Lâm chống nhà Tân bùng nổ. Lưu Thánh Công được phong là Canh Thủy tướng quân, lực lượng nghĩa quân Lục Lâm ngày càng mạnh, sau được nghĩa quân Lục Lâm lập làm Hoàng Đế. Sau đó, nghĩa quân chiếm được Uyển thành, Canh Thủy Đế lấy đây làm kinh đô. Đến khi Thân Đồ Kiến mấy người tổ chức nghĩa quân lật đổ Vương Mãng, không lâu chiếm được thành Trường An. Vương Mãng cũng bị giết chết. Tin tức lan truyền đến Uyển thành, Canh Thủy Đế nói: “Vương Mãng không bị giết thì kết cục cũng không tốt hơn Hoắc Quang là bao”. Hàn phu nhân nói: “Vương Mãng không chết thì Bệ Hạ làm sao làm được Hoàng Đế?”. Thực ra, Hàn phu nhân nói ra điều Canh Thủy Đế muốn nói. Canh Thủy Đế làm Hoàng Đế nhưng không chú tâm vào việc triều chính, cùng Hàn phu nhân đắm chìm trong tửu sắc, dâm loạn quá mức. Hàn phu nhân ngồi trong màn che giả giọng của Canh Thủy Đế để nói chuyện với quần thần. Quần thần biết không phải là Canh Thủy Đế, không ai là không oán hận. Lúc quan Thượng thư đến tấu trình, Hàn phu nhân nói: “Đúng lúc Vua đang cùng ta ăn tiệc vui vẻ lại đến tấu trình!”, do đó kỷ cương chỉnh đốn, chư hầu xa lánh. Đến khi quân Xích Mi tấn công vào Trường An, Canh Thủy Đế đã dâng vợ yêu và ấn tỷ của Thiên tử cho quân Xích Mi để xin hàng. Nhưng rồi Canh Thủy Đế bị quân Xích Mi treo cổ.
Kinh Thi có câu: “Bỉ hôn bất tri, nhất túy nhất phú” (Người kia u ám mê si, say ngay càng nặng li bì chẳng thôi) là nói Canh Thủy Đế và Hàn phu nhân.
LƯƠNG HỒNG THÊ
(Hiền Minh)
Lương Hồng thê là vợ của Lương Bá Thuần ở đất Hữu Phù Phong, là con gái của nhà họ Mạnh ở cùng quê với Lương Bá Thuần. Lương Hồng thê hình dáng xấu xí nhưng đức hạnh vô cùng. Trong làng có nhiều người đến cầu hôn nhưng nàng đều không đồng ý. Đến khi 30 tuổi, cha mẹ hỏi nàng phải chọn chồng như thế nào thì nàng đáp rằng: “Phải chọn người hiền đức như Lương Hồng”. Lúc đó Lương Hồng cũng chưa lấy vợ, nhiều con gái thế gia ở đất Phù Phong đều mong được gả cho Lương Hồng, nhưng Lương Hồng đều không đồng ý. Lương Hồng biết nàng ngưỡng mộ mình, lại rất hâm mộ đức hạnh của nàng nên quyết định lấy nàng làm vợ. Khi làm lễ thành hôn, nàng mặc xiêm y lộng lẫy, trang sức toàn vàng ngọc đắt tiền, cốt làm đẹp cho chàng vừa ý. Nào ngờ trông thấy vợ trang sức rực rỡ, Lương Hồng không bằng lòng, bảy ngày đêm, chàng không làm lễ động phòng hoa chúc. Nàng bèn quỳ dưới giường nói: “Tiểu nữ nghe nói tiên sinh đức hạnh cao thượng, đã từ chối rất nhiều phụ nữ. Thân thiếp cũng từ chối rất nhiều chàng trai, nay bị ghét bỏ, không thể không đến tạ tội!” Lương Hồng nói: “Ta muốn tìm một người có thể mặc áo thô sống hết đời cùng ta. Nay nàng xiêm y lộng lẫy, trang sức rực rỡ, đâu phải là người mà ta mong muốn?”. Nàng đáp: “Biết được ý của chàng, thiếp cũng có trang phục để ẩn cư”, thế rồi cởi bỏ xiêm y lộng lẫy, mặc quần áo vải thô, cài thoa gai ra hầu chồng. Lương Hồng vui vẻ nói: “Đây mới chính là vợ ta”, rồi đặt tên cho nàng là Quang, tên tự là Đức Diệu, còn mình tự đặt tên là Vận Kỳ, tên tự là Sĩ Quang rồi cùng nhau vào trong núi Bá Lăng ở ẩn.
Lúc này là lúc Vương Mãng bị đánh bại. Lương Hồng cùng với vợ đi ở ẩn, tự cầy cấy, dệt vải để nuôi thân, cùng nhau đọc sách đàn nhạc, quên đi phú quý vinh hoa. Sau lại đến Cối Kê làm nghề giã gạo thuê kiếm sống. Tuy cuộc sống nghèo khổ nhưng mỗi bữa cơm nàng đều nâng mâm ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng, không dám nhìn chính diện, lấy lễ tu thân.
Bậc quân tử nói: Vợ của Lương Hồng cam phận nghèo mà vui với đạo đức, không màng vinh hoa phú quý.
Luận Ngữ có câu: “Bất nghĩa nhi phú thả quý, ư ngã như phù vân” (Bất nghĩa mà có được phú quý, đối với ta cũng giống như phù vân mà thôi) là nói điều này.
MINH ĐỨC MÃ HẬU
(Mẫu Nghi)
Minh Đức Mã Hậu là Hoàng Hậu của Hán Minh Đế, là con gái của Phục Ba tướng quân, tân tức trung thành hầu Mã Viện. Lúc nhỏ đã thông minh xuất chúng, năm 13 tuổi được tuyển vào cung Thái Tử. Bà tiếp đãi người cùng trang lứa như bậc chí tôn, nghĩ tới người trước, sau mới tới mình, đối xử với người khác đều xuất phát từ tấm lòng, do vậy mà được sủng ái. Những việc liên quan đến chính sự thì bà thường đối xử chân thành, cảm thông người khác, dùng lý để xem xét. Cho dù là không thể làm mãn nguyện hết mọi người thì cũng phải nói rõ ràng. Lúc đó Mã quý nhân không có con. Không lâu sau người em họ là Giả thị cũng vào cung sinh được một con trai cho Hán Minh Đế tên là Lưu Đát. Minh Đế đem Lưu Đát cho Mã Quý nhân nuôi làm con. Mã quý nhân rất sức tỉ mỉ dưỡng dục, làm lụng vất vả chỉ để dành mọi thứ tốt nhất nuôi dưỡng Lưu Đát. Bản tính Lưu Đát trời sinh nhân hậu, cho nên mẫu từ tử ái, trước sau không có một chút mâu thuẫn ngăn cách. Bản thân không thể sinh dục, Mã quý nhân rất lo lắng tình trạng Minh Đế không có nhiều hậu duệ, nên bà thường hay tiến cử người hiền năng vào hậu cung, hi vọng có thể khai chi tán diệp, giúp Minh Đế giải ưu phiền. Các đại thần đề nghị chuyện lập Trường Thu cung, cùng nhau xin lập Mã quý nhân làm Hoàng hậu. Hán Minh Đế hỏi ý Âm Thái Hậu, vốn Thái Hậu sẵn có cảm tình với Mã quý nhân nên nói: “Trong hậu cung, hiền đức của Mã quý nhân là đứng đầu, nên chọn nàng ta đi!”, vì thế Mã quý nhân dưới sự tán đồng của Âm Thái hậu chính thức trở thành Hoàng Hậu. Con nuôi của bà là Lưu Đát, lấy thân phận Đích tử được lập làm Thái Tử.
Sau khi Mã quý nhân trở thành Hoàng Hậu thì vẫn vô cùng tiết kiệm. Chiếc váy mặc trên người là dùng lụa thô dệt thành, mà viền váy cũng không có trang sức. Người hầu cũng là người xấu xí không tao nhã chứ không dùng lại những người mà trước đây mình đã dùng. Một số vợ con của công khanh đại thần đến triều kiến, thấy Hoàng Hậu mặc đơn sơ thì đều cười bà. Hoàng Hậu cũng không lên tiếng phê bình mà nói: “Loại hàng tơ dệt này rất thích hợp nhuộm màu, do đó ta hay dùng!”. Những người lớn tuổi tự nhiên biết ý của Hoàng Hậu, đây là mỹ đức tiết kiệm của bà. Mã Hoàng Hậu không những tiết kiệm mà con yêu cầu bản thân rất nghiêm khắc, không thích ra ngoài du ngoạn, cũng không thích đứng bên cửa sổ nhìn về phía xa, không thích âm nhạc. Hoàng Đế đến Uyển Hựu Ly cung thì bà ít khi đi theo. Mã Hoàng Hậu rất hiếu học, đọc Dịch Kinh, Kinh Thi, Luận Ngữ, Xuân Thu có thể nói được sơ lược ý nghĩa. Bà đọc thuộc lòng Sở Từ. Những quan điểm ngôn luận ghi chép trong sách bà đều nắm được điểm chính. Đọc lịch sử đọc đến chỗ Quang Vũ Hoàng Đế không màng vàng bạc châu báu, thiên lý mã và bảo kiếm thì cảm phục mỹ đức chủ trương tiết kiêm của Quang Vũ Đế.
Lúc xảy ra việc Sở Vương Lưu Anh mưu đồ lật đổ Hán Minh Đế bị phát hiện mà phế vương vị, sau đó phải tự sát. Việc này liên quan đến rất nhiều người. Hán Minh Đế tiếp tục muốn mở rộng điều tra để truy tìm đồng đảng, bất chấp lời khuyên của các quan. Mã Hậu bèn lựa lời khuyên giải không nên làm liên lụy nhiều người, Minh Đế mới thôi ý định mở rộng vụ án.
Mã Hoàng Hậu không những có thể chủ trì sự công bằng, còn không vì tình riêng. Anh trai của bà là Hổ Phẫn Trung Lang, em trai là Hoàng Môn Thị Lang, bà cũng không thăng chức cho họ. Khi Hán Minh Đế bị bệnh, gọi Hoàng Môn Thị Lang phụ trách thuốc thang, bà ngày đêm bên cạnh chăm sóc không sợ gian khổ. Sau khi Hán Minh Đế băng hà, bà tự mình sửa lại “Khởi Cư Chú”, xóa bỏ việc anh trai là Mã Phòng tham gia việc thuốc thang. Các công khanh chư hầu dâng thư nói rằng nên theo điển cũ, phong tước cho người nhà của bà. Bà nói rằng: “Người bên đằng ngoại chuyên quyền xảy ra đã nhiều, từ khi ta làm Hoàng Hậu đến nay đã nghiêm khắc với bản thân để tránh việc này xảy ra”. Do vậy, Hoàng Hậu hạ lệnh cho người nhà của mình không được giữ chức vụ lớn. Đến năm thứ hai xảy ra hạn hán, có một số người cho rằng đó là do không phong tước cho người bên đằng ngoại mà ra. Sau khi Chương Đế báo lên Thái Hậu, bà vẫn không đồng ý phong tước cho người bên đằng ngoại. Bà nói: “Mấy năm xảy ra hạn hán, nhân dân phải sống lang thang, không thể phong thêm chức tước làm hao tài tốn của. Khi Tiên đế còn sống đã vô cùng cẩn thận, quyết không để cho người bên đằng ngoại giữ những chức vụ quan trọng. Do vậy trong các Hoàng Tử, chỉ phong cho Sở Vương, Chuẩn Dương Vương một nửa phần đất. Tiên đế còn thường nói rằng con của ta không nên giống như con của Quang Vũ Đế. Nay sao các quan trong triều lại lấy ta ra so sánh với Hoàng Hậu Âm Lệ Hoa của Hán Quang Vũ Đế? Ta rất biết việc phải nghiêm khắc với bản thân, không vi phạm mệnh lệnh của Tiên đế, mặc quần áo vải thô, ăn uống không cầu vật ngon. Người hầu của ta ăn mặc cũng rất giản dị. Họ cũng không đánh phấn bôi son và xông hương. Tại sao ta làm như vậy? Đây là để làm gương cho mọi người. Mục đích của ta để cho người bên đằng ngoại sau khi thấy vậy thì có thể tự hỏi lòng mình, tự kiểm điểm chính mình, nghiêm khắc với bản thân mình. Không ngờ họ lại cười ta là quá ư tiết kiệm. Mấy hôm trước khi qua Trạo Long Môn, thấy người bên đằng ngoại đến thỉnh an, ngựa xe như nước, kẻ hầu người hạ ai cũng trang sức lộng lẫy. Thật là phú quý đường hoàng! Quay lại xem người hầu của ta, ai cũng ăn mặc giản dị, so với người hầu của họ thì thật kém xa. Ta không tức giận trách mắng họ, chỉ cắt đứt nguồn chi phí cho họ, mong họ biết xấu hổ, biết tiết kiệm, nghĩ cho đất nước, không quên giúp đỡ đất nước. Biết bầy tôi không ai bằng Vua. Huống hồ là người thân! Ta quá hiểu họ, người muốn được thăng quan, sở dĩ muốn làm quan là để làm ông lớn, mong được phong hầu là để cầu được bổng lộc, phụng dưỡng cha mẹ, nuôi vợ nuôi con, có thể cúng tế Tổ tiên, sống cuộc sống ấm no, không phải lo nghĩ đến cơm áo gạo tiền. Nay các ngươi được hưởng bổng lộc của đất nước, có ăn có mặc, đồ cúng tế do đất nước cung phụng, áo quần do đất nước cung cấp, mà còn không biết đủ, không biết tiết kiệm, không biết là phải bớt phóng túng. Lại còn muốn làm quan lớn, hưởng lộc hậu, được phong ấp. Đây là vì điều gì? Cung Trường Lạc của ta không thể làm trái với lời thề, phụ lại ý chỉ của Tiên đế, triều đình cũng không thể phụ lòng mong đợi của nhân dân”.
Lúc đầu, khi an táng Thái phu nhân, mấy người anh của Thái Hậu muốn xây mộ lớn nhưng sau khi Thái Hậu đưa ra ý kiến thì đã xây nhỏ lại. Trên dưới đều nghiêm khắc theo luật pháp, không vì tình riêng, Vua phạm pháp cũng bị tội như thứ dân. Xe của những vị Vương Tử như Quảng Bình, Cự Lộc, Lạc Thành Vương đều rất đơn giản, không có vàng bạc trang sức, ngựa cũng rất gầy nhỏ. Chương Đế báo cáo lại cho mẫu hậu, Mã Thái Hậu lúc này mới ban tiền cho mỗi người năm trăm vạn. Áo quần ăn mặc không khác với dân thường, những người có lỗi thì không được ban thưởng. Do vậy thân thích của Hoàng Gia đều ăn mặc giản dị. Đây là kết quả giáo hóa nghiêm khắc. Mã Thái Hậu bố trí nhà nuôi tằm ở Trạo Long Trì, tự mình lao động, nuôi tằm trở thành một hoạt động giải trí. Mã Thái Hậu dạy các tiểu Hoàng Tử ở đây, dạy họ đọc sách, cảnh tượng ở đây vô cùng vui vẻ. Mã Thái Hậu coi Chương Đế như con đẻ của mình. Chương Đế cũng vô cùng hiếu kính với Mã Thái Hậu.
Bậc quân tử nói người vợ có đạo đức thì có thể làm gương cho những người phụ nữ khác trong nhà. Mẫu hậu có đạo đức thì có thể làm gương cho tất cả những người phụ nữ trong thiên hạ.
Kinh Thi có câu: “Duy thử huệ quân, dân nhân sở chiêm. Bỉnh tâm tuyên do, khảo thận kỳ tướng” (Vua này thuận nghĩa xiết bao! Được dân chúng đã hướng vào ngưỡng trông. Mưu tính khắp, giữ lòng chặt chẽ, xét tận tường những kẻ giúp mình) là nói điều này.
LƯƠNG PHU NHÂN DI
(Biện Thông)
Lương phu nhân Di là con gái của Lương Tủng, là vợ của Phàn Điều, là dì của Hán Hiếu Hòa Hoàng Đế, là chị ruột của Cung Hoài Hoàng Hậu. Lúc đầu Cung Hoài Hoàng Hậu được tuyển vào cung, được Hán Chương Đế vô cùng sủng ái, sinh ra Hán Hòa Đế, được lập làm Thái Tử. Đậu Hoàng Hậu không có con nên chọn Thái Tử làm con nuôi. Nhà họ Lương thấy Cung Hoài Hoàng Hậu sinh được Thái Tử thì vô cùng vui mừng, nhưng không ngờ Đậu Hoàng Hậu biết được nên đã sinh lòng đố kỵ, bèn tìm cách tiêu diệt luôn dòng họ Lương. Đậu Hoàng Hậu vu cáo Lương Tủng, cha của Lương Hoàng Hậu nhiều tội trạng vô căn cứ nhưng Hán Chương đế vẫn tin, ra lệnh giam Lương Tủng vào ngục khiến ông chết trong đó, gia quyến bị đày đi Cửu Chân. Sau này khi Hán Hòa Đế lên ngôi, Đậu Hoàng Hậu qua đời. Lương phu nhân Di ở trong dân gian mới dâng tấu rằng: “Em gái ruột của thiếp được tuyển vào cung, may mắn được ân sâu của Tiên đế, được sủng ái, được ông trời hạ lệnh sinh được Thánh chủ Điện hạ, nhưng bị họ Đậu vu cáo mà bị diệt vong. Cha thiếp là Lương Tủng bị chết oan trong ngục, thân xác không được chôn cất. Mẹ già em trai mồ côi bị đày đi xa, chỉ mình thiếp được thoát thân, trốn trong dân gian, thường sợ bị vùi lấp. Nay được ân đức Thánh minh của điện hạ, làm rõ việc làm của nhà họ Đậu để cho trong nước được yên ổn. Thiếp may mắn còn chút hơi thở, nay dám liều chết tự phân trần: Cha thiếp đã chết, không thể sống lại, mẹ già đã 70 tuổi, em trai bị đày đi xa không biết sống chết ra sao. Nguyện xin cho mẹ và em trai được trở về quê hương thu thập hài cốt của cha để chôn cất. Thiếp nghe rằng khi Văn Đế lên ngôi thì họ Bạc được sủng ái, khi Tuyên Đế kế vị thì họ Sử được phục hưng. Thiếp cảm thấy đau buồn vì có người thân thích như họ Bạc, họ Sử mà bản thân không được ân điển của người bên đằng ngoại như họ”.
Khi tấu sớ được dâng lên, Thiên tử cảm ngộ bèn sai Trung Thường Thi điều tra rõ ràng sự việc, cho gọi Lương phu nhân đến gặp mặt. Hán Hòa đế khâm phục sự chí hiếu của Lương phu nhân Di nên gia phong làm Lương phu nhân Di, còn cho chồng của Lương phu nhân Di làm Lang Trung. Đối với mẹ đẻ, Hán Hòa đế cho làm một lễ khuyết tang trọng thể tại Thừa Quang Cung, truy tôn thụy hiệu là Cung Hoài Hoàng Hậu rồi an táng ở Tây lăng. Lương Tủng được truy tôn thụy hiệu là Bao Thân Mẫn hầu. Mẹ và em trai được quay về quê hương, được phong hầu, ăn bổng lộc năm nghìn hộ.
Bậc quân tử nói rằng Lương phu nhân dùng lời lẽ bi thương để phục hưng gia đình, làm cảm ngộ Vua, làm vinh dự linh hồn đã khuất của người cha, mẹ được quay về quê hương, tạo phúc cho gia đình, để Vua được hoàn thành lễ của người con đối với mẹ.
Kinh Thi có câu: “Thế chi bất hiền, quyết do dực dực. Tư hoàng đa sĩ, sinh thử vương quốc” (Đời đời chẳng hiển vinh sao? Cơ mưu kính cẩn xiết bao gắng lòng. Hiền sĩ đẹp lại đông nhiều ấy, nước Văn vương đầy dẫy sinh vào) là nói điều này.