CON ĐƯỜNG ĐẠT ĐẾN NHÂN SINH HẠNH PHÚC – TẬP 32/40
Chủ giảng: Thầy giáo – Tiến sĩ Thái Lễ Húc
Thời gian giảng: Tháng 2 năm 2005
Khi chúng ta khuyên người khác làm việc thiện, họ có thể sửa đổi và cũng làm cho gia đình của họ có sự chuyển đổi rất tốt. Cho nên khi càng có nhiều những người như vậy thì chúng ta sẽ càng cảm thấy rất vui. Chúng ta cũng cảm thấy đã tận hết đạo nghĩa với bạn bè và cuộc đời này rất có giá trị. Nhưng “khuyên người làm việc thiện” cũng phải suy xét đến mức độ tiếp thu của họ. Cho nên, dạy người khác hành thiện thì không thể ngay lập tức đưa ra tiêu chuẩn quá cao, “giáo nhân dĩ thiện vô quá cao”. Như vậy đối phương sẽ cảm thấy rất khó thực hiện được. Mà phải để cho họ có thể tự tại mà học tập, mà thực hiện, đó là “đương sử kỳ khả tùng”. Các vị không thể ngay lập tức đưa ra tiêu chuẩn cao quá, vì như vậy họ sẽ thấy: “Sao mà xa vời quá!”. Các vị không thể lập tức nói với họ rằng: “Các vị phải là Thánh nhân”. Như vậy sẽ làm cho họ sợ muốn chết. Các vị phải bắt đầu từ những việc mà họ có thể làm được như giúp đỡ em trai, giúp đỡ mẹ, làm một người anh tốt, làm một người con hiếu thảo để thực hiện.
Phía sau trung tâm chúng tôi có một cái sân rất rộng, có một lần tôi phát hiện có rất nhiều rác. Tôi ở tầng trên đi xuống và bắt đầu cùng với một em nhỏ nhặt rác. Khi đó ở tầng dưới có một số em nhỏ ở, trong đó có một bé gái đứng ở đó và nhìn tôi nhặt rác. Nếu như chúng ta là giáo viên mà lại nói: “Cô bạn nhỏ! Mau ra đây nhặt rác đi!”, cô bé có thể sẽ làm nhưng với thái độ không được vui vẻ. Cho nên tôi cứ nhặt và nhặt, sau khi nhặt đến bên cạnh cô bé tôi liền nói: “Cô bạn nhỏ! Em có thể giúp thầy một việc không? Em nhặt cái kia giúp thầy nhé!”. Cô bé liền nhìn tôi sau đó nhặt lên, rồi lại nhặt tiếp cái thứ hai.
Sau đó bởi vì bên cạnh tôi còn có một bạn nhỏ cũng đang nhặt rác rất chăm chỉ, cho nên cô bé này liền rất vui vẻ cùng với chúng tôi bắt đầu nhặt rác. Kết quả là nhặt đến khi không còn túi để đựng rác nữa, cô bé tự mình chạy về nhà lấy thêm túi đựng rác đến để đựng. Và cô nhặt rác cũng rất là hào hứng, từ cái sân này mà nhặt ra đến tận đường nhựa. Tôi liền nghĩ: “Không biết phải nhặt bao lâu nữa, chút nữa mình lại có việc phải làm”. Cô bé đã chạy về nhà lấy cái túi đựng rác thứ ba. Khi tôi nhìn thấy cô bé muốn về lấy cái thứ tư thì liền nói: “Cô bạn nhỏ! Hôm nay chúng ta nhặt đến đây thôi. Thầy rất cảm ơn em”. Cho nên chỉ cần các vị hướng dẫn từng bước, bọn trẻ khi bỏ công sức ra nhất định sẽ nhận được sự vui vẻ và có cảm giác được thành tựu.
Vậy thì đương nhiên khi người khác làm việc thiện chúng ta cũng cần phải ca ngợi họ đúng lúc, khuyến khích đúng lúc. Cho nên khi về đến trung tâm, vừa vặn có người bạn thân ở Tân Cương gửi cho tôi một ít nho khô vùng Tân Cương, tôi liền nói với đứa bé ở trung tâm này rằng: “Nào! Hãy cầm nho khô đi cảm ơn cô bạn nhỏ lúc nãy! Hãy cùng ăn với cô bé!”. Kết quả là sau khi mang nho khô xuống, đứa bé này lại dẫn cô bé lên trên chỗ trung tâm của chúng tôi chơi. Cho nên đây cũng là kết được một cái duyên lành. Sau đó cô bé cũng đến học ở trung tâm chúng tôi. Đây chính là khi khuyên người khác làm việc thiện thì cũng kết được một pháp duyên lành. Cho nên khi khuyên người khác chúng ta cũng phải đứng vào góc độ của người đó để từ từ chỉ dẫn họ làm việc thiện. Đây là “khuyên người làm việc thiện”.
- Điều thứ năm: “Giúp người hoàn thành ước nguyện”.
Để làm tốt một việc vào thời đại hiện nay thật không dễ dàng gì. Các vị bạn hữu thấy tôi cũng đi không biết bao nhiêu nơi ở Đại Lục. Đó là công việc sau khi đã làm chín tháng trời. Vậy tình trạng chín tháng trước đó ra sao? Có được thuận lợi không? Các vị có thấy đằng sau nụ cười của tôi là cả một quá trình rất gian khổ không? Khi đó tôi tứ cố vô thân, hàng ngày phải đi sớm về khuya. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là “đi sớm về khuya một mình”. Sáng sớm đã phải đi, buổi tối đạp xe đạp về, lúc đó cũng đã hơn mười giờ. Về đến nhà làm một số công việc vệ sinh sau đó giặt quần áo. Sau khi xong nhìn đồng hồ thì đã mười hai giờ. Sau đó mới lên giường và ngủ rất ngon. Cho nên nếu như có vị bạn hữu nào bị mất ngủ, sẽ có một cách chữa trị rất hữu hiệu là ra sức làm việc. Đây là phương thuốc rất hiệu nghiệm.
Hơn nữa trong quá trình đó thường có người đến trung tâm chúng tôi, sau đó còn nhòm bên này ngó bên kia rồi nói: “Thời nay làm gì có chuyện như vậy! Giảng bài không thu tiền, phát sách cũng không thu tiền, nhất định là có mục đích gì đó”. Sao các vị biết rõ vậy? Họ không tin bởi vì chưa từng gặp qua. Cho nên thường xuyên gặp được rất nhiều người nghi ngờ chất vấn, nhưng chúng tôi cũng rất hoan nghênh họ đến xem, đến kiểm tra. Chúng tôi không sợ họ đến xem, bởi xem rồi thì mới có thể tiếp xúc, mới có thể hiểu được.
Vào cái thời đại này muốn làm việc tốt quả thật là không dễ. Cho nên khi nhìn thấy người khác hành thiện thì chúng ta nhất định phải cố gắng giúp đỡ họ. Cho dù chỉ là một câu khen ngợi, thì tin rằng đối với họ cũng là một sự khích lệ rất quan trọng. Cho nên chúng ta cũng không nên tiết kiệm lời khen ngợi. Và đây là giúp người khác hoàn thành ước nguyện.
Hàn Dũ tiên sinh cũng từng nói rằng: “Nhất thời khuyến nhân dĩ khẩu, bách thế khuyến nhân dĩ thư” (nhất thời thì dùng lời nói để khuyên bảo, muôn đời thì phải dùng sách để khuyên bảo). Đó là có thể đem kinh nghiệm, trí tuệ cả đời của chúng ta viết thành sách để làm lợi ích cho người đời sau. Giống như Viên Liễu Phàm tiên sinh viết ra cuốn “Liễu Phàm Tứ Huấn”, không chỉ lợi ích cho con cháu đời sau của mình, mà còn lợi ích cho tất cả những ai đã xem qua quyển sách này. Tuy nhiên khi chúng ta muốn “bách thế khuyến nhân dĩ thư” (muôn đời thì phải dùng sách để khuyên bảo), nhưng có phải sách muốn viết là viết ngay được không? Bởi vậy mà người xưa có câu “Tam bất hủ”. “Tam bất hủ” nào vậy? Đó là lập công, lập ngôn, lập đức. Ba điều này phải đúng theo thứ tự, phải là lập đức, lập công, lập ngôn. Thứ tự như vậy mới đúng.
Trước khi chưa lập đức mà đã lập ngôn thì có thể sẽ nói xằng, nói bậy, nói lý luận suông. Có đức hạnh rồi còn phải dựa vào sự không ngừng rèn luyện thì họ mới có thể thông tình đạt lý, làm ra được những việc có sự cống hiến cho xã hội. Đó là lập công. Rồi họ lại chỉ bảo cho người khác phương pháp làm sao để tu thân, làm sao để lập nghiệp. Đó chính là lập ngôn.
Như chúng ta đã thấy, vào thời nhà Thanh, Tổng Đốc bốn tỉnh là Tăng Quốc Phan tiên sinh chân thật là đã lập đức rồi mới đến lập công. Văn chương của ông tự nhiên làm cho người khác được lợi ích vô cùng. Bởi vậy ông cũng đã lập được ngôn. Đây đều là giúp người khác hoàn thành ước nguyện và cũng là khuyên người làm việc thiện.
- Điều thứ sáu: “Cứu người lúc nguy cấp”.
Nếu như trên đường chúng ta gặp phải một người bị thương rất nặng thì phải nhanh chóng gọi điện thoại đến số 110, 119 rồi nhanh chóng gọi xe cấp cứu. Điều này nhất định phải làm, bởi vì chỉ chậm một giây cũng có thể làm nguy hiểm đến tính mạng của họ. Ở trên mạng Đại Phương Quảng có một vị bạn hữu để lại một lời nhắn, anh ấy nói đáng lẽ anh ấy muốn tự sát, nhưng bởi có xem mấy bài viết đăng trên Đại Phương Quảng nên tâm tình mới bình hòa trở lại.
Cho nên thời nay có một căn bệnh hủy hoại rất lớn đối với nhân tâm con người. Bệnh gì vậy? Bệnh trầm cảm. Bệnh này rất ghê gớm! Nghe nói giáo viên có tỷ lệ cao nhất về bệnh trầm cảm. Điều này tôi cũng lĩnh hội được. Bởi vì nói cho cùng, những người được dạy đều là những học sinh, và người làm thầy đều phải chịu trách nhiệm về sự an toàn và rất nhiều phương diện khác nữa đối với bọn trẻ, áp lực đặc biệt lớn.
Hơn nữa họ lại phải mang theo cái mác “giáo viên”. Có rất nhiều điều, nếu như họ không biết thì họ cũng rất khó chịu. Cho nên, chân thật là thầy cô giáo cũng phải không ngừng học tập, bổ túc kiến thức thì mới có thể hiểu được các đạo lý để mà yên tâm, thoải mái. Nếu không giáo viên cũng rất dễ chán ghét thế tục, buồn bực không vui.
Vì vậy nếu lời nói của chúng ta có thể từ từ mở được cánh cửa tâm hồn của những người bị bệnh trầm cảm, từ từ giúp họ hiểu rõ được đạo lý thì đó đã là “cứu người lúc nguy cấp”.
Tôi còn nhớ khi tôi giảng xong bài giảng năm ngày ở đảo Tần Hoàng, khi lên xe để về Bắc Kinh, xe còn chưa chạy thì có một vị nữ sĩ đưa hai tay vào trong cửa kính xe, tâm tình có chút xúc động. Cô nói với tôi: “Thầy Thái! Tôi đã có ý định tự sát, nhưng sau khi nghe xong thầy giảng năm ngày này…..”. Thực ra khi cô ấy vừa nói thì nước mắt đã rơi xuống. Thực ra lúc đó tôi cũng rơi nước mắt với cô ấy, bởi vì tấm chân tình đó của cô, tôi chân thật cũng cảm nhận được. Cô nói: “….Sau năm ngày nghe giảng, tôi đã tìm được định vị của thái độ về nhân sinh. Sau này tôi sẽ sống tốt cuộc sống của tôi”. Khi chúng ta hiểu được và cảm nhận được trí tuệ của Thánh Hiền đối với con người thời hiện nay chân thật là vô cùng cần thiết, chính cảm nhận này sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta không được lười biếng.
Cho nên có rất nhiều bạn bè, có rất nhiều giáo viên hỏi tôi rằng: “Thầy Thái! Hình như thầy không biết mệt? Hình như cũng không bao giờ nản lòng?”. Họ lại hỏi tôi: “Sao thầy lại làm được vậy?”. Tôi trả lời: “Rất đơn giản! Nếu như có một người già 80 tuổi quỳ trước mặt các vị thì các vị sẽ không nản lòng”. Họ nghe không hiểu. Tôi tiếp tục nói: “Khi tôi ở núi Thiên Mục của Hàng Châu diễn giảng, giảng đến ngày thứ ba, sau khi ăn cơm xong đi ra khỏi trai đường, thì có một ông lão 80 tuổi không biết đứng ở đó đợi tôi từ bao giờ. Khi thấy tôi, cụ liền quỳ xuống. Cũng may thời học đại học, tôi ở trong đội tuyển cầu lông của trường. Các vị đã thấy tốc độ của cầu lông nhanh như thế nào rồi, muốn trong chớp mắt cứu được cầu thì phản xạ phải rất nhanh. Cho nên phản xạ đó của tôi là hai chân chợt quỳ xuống và trượt đến chỗ ông lão, đỡ lấy ông lão. Mấy người trong ban tổ chức đi bên cạnh còn sợ chân tôi cọ sát với nền nhà mà bị thương, cũng may là có thảm trải nền. Tôi vội nói với ông lão: Ông lão! Ông hãy đứng dậy mà nói, không nên như vậy”.
Kết quả ông lão đứng dậy và nói: “Thầy Thái à! Thầy phải hứa với tôi hai việc. Việc thứ nhất, ở Tân Cương chúng tôi…”. Ông là người Tân Cương. Ông nói: “Ở Tân Cương không được nghe những lời giáo huấn Thánh Hiền này. Cho nên thầy nhất định phải đem những giáo trình này đến giảng ở Tân Cương”. Ông lão đã tám mươi tuổi rồi, con cái ông cũng đã dạy học ở các trường đại học. Vậy xin hỏi, điều thỉnh cầu này của ông là vì ai? Vì thế hệ mai sau, vì nhân dân nơi ông sinh sống. Hành động này của ông lão đã giáo dục tất cả những giáo viên chúng tôi đang tham gia khóa học này rằng sự chí công vô tư của ông như vậy đáng để cho chúng ta noi theo.
Cho nên những giáo viên và người trong ban tổ chức trong chuyến đi núi Thiên Mục này, đến ngày cuối cùng cũng phải rơi lệ vì cảm động, đều cảm thấy sứ mệnh trên vai mình nặng thêm. Tuy là nặng thêm, nặng thêm ở đây là chỉ số lượng, trọng lượng, nhưng khi gánh vác thì không nặng. Bởi vì vai của chúng ta sẽ trở nên vững chắc, mạnh khỏe. Bởi vì chúng ta tin tưởng rằng tất cả Tổ tiên, tất cả Thánh Hiền ở cõi nào đó đều bảo vệ chúng ta, ủng hộ chúng ta. Hơn nữa chúng ta cũng vô cùng tin tưởng rằng: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, nhất định có thể thức tỉnh lòng người. Ông lão nói tiếp: “Điều thứ hai là hãy tặng cho tôi một bộ đĩa thu bài giảng của thầy ở núi Thiên Mục”. Cho nên chúng ta có thể thấy, ông lão 80 tuổi mà vẫn còn hiếu học như vậy thì cũng đáng để cho chúng ta học tập lắm chứ.
Cho nên tôi đã nói với những người bạn này của tôi rằng: “Ông lão đã cung kính, chí thành đối với các vị như vậy thì các vị phải ghi nhớ mãi ở trong lòng. Các vị không thể phụ tấm lòng chí thành này của người ta đối với các vị. Các vị có thể nhớ mãi thì tin rằng các vị sẽ không bao giờ lười biếng, không bao giờ có thể nản lòng”. Cho nên chúng ta làm việc gì cũng đều là bổn phận. Người khác ca ngợi chúng ta, tôn trọng chúng ta thì chúng ta cũng phải ghi nhớ vào lòng. Chúng ta phải tu thân, hành đạo để đền đáp những người đã yêu mến, chúc phúc cho chúng ta. Cho nên đây được gọi là: “Cứu người lúc nguy cấp”. Điều thứ sáu cũng liên quan đến con người nên tôi đem nó gộp chung vào.
- Điều thứ bảy: “Hưng kiến đại lợi”
Chúng ta hãy đi xem điều thứ bẩy là “hưng kiến đại lợi”. Chúng ta thấy thời cổ xưa có rất nhiều người thiện tâm đi xây cầu, làm đường để làm ích lợi cho đại chúng. Thời nay thì rất ít có cơ hội để xây cầu, làm đường, bởi những công trình đó thời nay do Chính phủ làm. Nhưng thật ra còn có rất nhiều không gian để chúng ta bỏ công sức ra phục vụ người khác. Ví dụ nhìn thấy trên mặt đường có hố sâu thì chúng ta phải gọi điện báo ngay cho cơ quan chức năng đến xử lý. Bởi vì hố sâu thì các vị nghĩ xem sẽ có hậu quả như thế nào xảy ra. Đúng! Nếu như có một người say rượu, có một chút không tỉnh táo, có thể lại phóng nhanh rồi đâm vào cái hố đó, thì có thể người cũng bắn ra khỏi xe. Chúng ta từ điều này mà có thể nghĩ được rằng có người có thể sẽ gặp nạn. Tấm lòng nhân từ như vậy thật là khó có được.
Cho nên hôm nay khi các vị đi trên đường, hoặc lái xe trên đường mà nhìn thấy giữa đường có một tảng đá to thì phải nhanh chóng di chuyển tảng đá đó đi nơi khác, nói không chừng có thể cứu được cả một gia đình cũng không biết chừng. Bởi vậy nơi nơi đều phải có tấm lòng thiện tâm luôn nghĩ cho người khác. Điều này tương đối là quan trọng.
Cho nên “hưng kiến đại lợi” chủ yếu nhất là những việc có thể ích lợi cho người khác, chúng ta phải tùy duyên, tùy phận mà tận tâm, tận lực để làm. Vậy nếu như các vị đang ở trên đường cao tốc mà nhìn thấy tảng đá to thì có nên dừng lại để di chuyển tảng đá đó không? Phải nhanh chóng gọi điện thoại. Vì điều này rất nguy hiểm, không thể dừng lại được. Cho nên chúng ta phải linh hoạt, xem xem làm như thế nào mới thích hợp. Ở Hải Khẩu, khi chúng tôi đi đường thường xuyên thấy có những tảng đá to. Bởi vì dân công ở đó đợi việc làm, có lúc còn quây lại tán chuyện, lại còn khênh những tảng đá to để ra giữa đường. Ban ngày người đi đường còn có thể nhìn thấy tảng đá, nhưng ban đêm nhìn không thấy. Cho nên rất có khả năng, ví dụ như có một người vừa đi vừa gọi điện thoại di động, bất chợt va vào tảng đá thì có thể sẽ bị ngã. Cho nên nhìn thấy vậy chúng ta phải di chuyển nó đi chỗ khác. Có lúc đi qua công trường xây dựng, bất chợt có thanh tre nhô ra, như vậy rất nguy hiểm, không cẩn thận có thể sẽ bị va vào đầu. Nếu chúng ta thấy vậy thì phải tìm xem có mảnh vải đỏ nào không, để buộc lên nó. Cho nên cũng là tùy duyên, tùy phận. Khi hàng ngày chúng ta đều tùy duyên, tùy phận để làm việc thiện, thì tin rằng cuộc sống của chúng ta sẽ vô cùng vui sướng, bởi giúp đỡ người khác là nguồn gốc của sự vui vẻ. Đó chính là “hưng kiến đại lợi”.
- Điều thứ tám: “Bố thí tài vật làm phúc”
Chữ “tài” ở đây tôi cũng đã giảng rồi. Đó là có thể là bố thí tiền tài, cũng có thể là dùng sức lao động, những kinh nghiệm của chúng ta để giúp đỡ người khác. Cho nên thời nay cũng có rất nhiều người bỏ sức lao động của họ ra để làm việc công đức. Thật ra, nội tài khó hay ngoại tài khó? Nội tài khó! Các vị bảo họ quyên góp một trăm tệ, hai trăm tệ thì có thể được. Nhưng bảo họ bỏ ra ba tiếng đồng hồ để giúp đỡ, phục vụ người khác thì có thể họ khó mà làm được. Cho nên việc tốt cũng có khó, có dễ, nhưng khó làm mà vẫn làm được thì công đức lại càng lớn hơn. Đây là bố thí tài vật làm phúc.
- Điều thứ chín: “Gìn giữ, bảo vệ chánh pháp”
Các vị cũng đang bảo vệ chánh pháp. Các vị đang làm đó! Bởi vì các vị đều dùng ánh mắt hiền hòa nhìn tôi, khiến cho tôi có cảm giác sẽ không làm hỏng việc, bởi vì trái tim tôi rất dễ bị tổn thương. Còn nữa là có những vị bạn hữu nghe xong cảm thấy có được một chút ích lợi, cho nên cũng dẫn thêm bạn bè khác đến nghe. Đây cũng là gìn giữ, bảo vệ chánh pháp. Còn có cả những bà mẹ dẫn con đến nghe, người mẹ dẫn con đến nghe thì tin rằng chồng của bà cũng sẽ rất vui bởi chỉ cần con cái họ nghe được chánh pháp thì có thể vượng được nhiều đời. Đây cũng là gìn giữ bảo vệ chánh pháp. Cho nên khi ở thành phố chúng ta có rất nhiều thanh niên phát tâm đi giảng Kinh thì chúng ta cũng phải cổ vũ, ủng hộ họ thì họ càng giảng càng tốt hơn. Như vậy thì công đức của các vị là vô lượng.
- Điều thứ mười: “Yêu quý vật mệnh”
Đối với đồ vật chúng ta cũng phải yêu quý, cho nên mới nói: “Một hạt cơm, một bát cháo có được cũng không phải dễ dàng”, quyết không thể lãng phí. Vậy đối với những sinh mệnh thì cũng phải yêu quý. Ở Úc khi họ làm đường thường gặp phải những cây lớn. Việc đầu tiên họ phải xem xem trên cây có tổ chim nào không. Nếu như có tổ chim thì họ sẽ dừng công trình lại, đợi qua mùa đó chim bay đi nơi khác thì họ mới lại bắt đầu công trình. Chúng ta có làm được như vậy không? Chúng ta thấy đó, người Úc rất thuần phác. Khi chúng tôi ở Úc, chân thật là khi có người đi ngang qua thì đều chào hỏi lẫn nhau, lòng người rất lương thiện. Một khi lòng người lương thiện thì hoàn cảnh môi trường cũng sẽ mưa thuận, gió hòa. Cho nên những loại rau trồng ở Úc cũng rất to lớn, chúng tôi ở đó ăn cũng rất no. Cho nên khi con người thật sự tôn trọng đối với sinh mệnh, tôn trọng vạn vật thì vạn vật nhất định sẽ báo đáp lại con người.
Bạch Cư Dị cũng có một bài thơ khuyên chúng ta phải yêu quý động vật, yêu quý sinh mệnh. Bài thơ có tựa đề là: “Mạc đạo quần sinh tính mệnh vi”, chớ nói tính mệnh của động vật không đáng giá. “Mạc đạo quần sinh tính mệnh vi, nhất ban cốt nhục nhất ban bì, khuyến quân mạc đả chi đầu điểu, tử tại sào trung vọng mẫu quy” (chớ nói tính mệnh động vật không đáng giá, cũng có xương thịt, cũng có da, khuyên ai đừng bắn chim đầu cành, chim non đang mong đợi chim mẹ về). Chúng ta dùng tâm lý cùng cảnh ngộ đó để mà yêu quý động vật.
Hiện nay có rất nhiều người chuyên môn bắt chim hoang dã để bán cho các em nhỏ. Chúng ta có nên mua không? Tốt nhất là không nên mua. Các vị càng mua thì họ càng bắt. Khi chúng ta cùng có nhận thức như vậy thì sẽ không mua của họ nữa. Vì điều mà họ muốn là vì tiền. Đợi đến khi họ không kiếm được tiền thì tự nhiên họ sẽ không đi bắt chim nữa. Hơn nữa những con chim hoang dã này chúng ta có nuôi được không? Rất khó nuôi. Cho nên phải giáo dục con cái ngay từ nhỏ rằng: “Chúng ta không mua thì họ sẽ ít bắt chim hơn. Như vậy thì những động vật nhỏ này sẽ không phải rời xa cha mẹ”. Cũng phải giáo dục nuôi dưỡng lòng từ bi cho con cái từ khi chúng còn nhỏ.
Đây là 10 điều thiện đã được thống kê và liệt kê ra.
Vậy thì chúng ta cũng biết phải làm sao để phán đoán được việc thiện, cũng biết được những cái gì có thể hành thiện được. Chúng ta phải ghi nhớ: “Kiến nhân thiện, tức tư tề. Tùng khứ viễn, dĩ tiệm tê” (Thấy người tốt, nên sửa mình. Dù còn xa, cũng dần kịp). Hơn nữa, trong quá trình làm việc thiện nhất định phải ghi nhớ một câu: “Đương nhân bất nhượng ư sư” (Hành thiện không được thua kém người khác). Cho nên mới có câu nói: “Bất nhượng cỏ nhân thị vị hữu chí”. Ý nói khi chúng ta học tập noi theo gương cổ nhân, chúng ta phải có thái độ không thua kém với cổ nhân, thậm chí còn phải vượt hơn so với cổ nhân.
Đây không phải là ngạo mạn. Chúng ta suy nghĩ xem hôm nay các vị là cha mẹ, nếu như con cái của các vị nói với các vị rằng: “Cha à! Thế hệ của con không thể vượt hơn thế hệ của cha”. Như vậy các vị có vui không? Các vị sẽ nói: “Tất cả những kinh nghiệm cần thiết cha đã dạy bảo cho con. Khi cha bằng tuổi con bây giờ thì không hiểu biết được như con. Cha đã đem hết kinh nghiệm để chỉ bảo cho con mà con lại nói là không hơn được cha”. Vậy người cha nhất định sẽ rất buồn. Nếu như mỗi một học sinh học những học vấn của Thánh Hiền như chúng ta đều nói rằng: “Đó đều là những vị Thánh Hiền cả. Chúng ta thì không được như vậy!”. Vậy thì Tổ tiên của chúng ta sẽ nghĩ rằng con cháu không thể dạy dỗ được. Cho nên học tập cũng cần phải có chí hướng, có chí khí “không thua kém với người xưa”. Những người dạy học như chúng ta khi nhìn thấy những em học sinh ưu tú ngày càng trưởng thành thì chúng ta cũng hy vọng sau này chúng sẽ thành công hơn chúng ta, và chúng ta cũng sẽ vô cùng hạnh phúc.
Quý vị thân mến! Các vị cũng đã gặp được những người thầy tốt thì mới biết được sự quý trọng học vấn của Thánh Hiền. Cho nên, chúng ta phải “tu thân, hành đạo”, phải vượt qua, phải hơn thầy giáo của mình thì thầy của chúng ta mới cảm thấy được an ủi. Bởi vậy mới nói: “Học quý lập chí” (học tập quý ở lập chí). Các vị không thể mới bắt đầu mục tiêu mà đã tụt lùi phía sau. Cho nên mới nói: “Kiến nhân thiện, tức tư tề. Tùng khứ viễn, dĩ tiệm tê” (Thấy người tốt, nên sửa mình. Dù còn xa, cũng dần kịp). Chân thật là những điều giáo huấn của thầy đối với chúng ta có thể là những kinh nghiệm được đúc kết mấy chục năm của thầy. Chân thật là như vậy! Điều này tôi cảm nhận được một cách sâu sắc. Cho nên chỉ cần chúng ta thật thà nghe lời thì nhất định có thể: “Tùng khứ viễn, dĩ tiệm tê” (Dù còn xa, cũng dần kịp).
************
20.2. Kiến nhân ác, tức nội tỉnh. Hữu tắc cải, vô gia cảnh (Thấy người xấu, tự kiểm điểm. Có thì sửa, không cảnh giác)
Nhìn thấy người khác có chỗ không tốt thì trước tiên chúng ta không nên phê bình ngay, trước tiên phải xét lại mình xem có phạm phải cái lỗi như vậy không. Nếu như có thì chúng ta lập tức sửa đổi lại. Nếu như không có thì rất tốt, chúng ta tiếp tục duy trì. Thầy Lý Bỉnh Nam có một đoạn khai thị rất hay. Thầy nói rằng: “Thấy người có điểm tốt thì không được đố kỵ mà phải tùy hỷ. Thấy người có chỗ không tốt thì không nên phê bình mà phải khuyên can hoặc giữ im lặng. Thấy người làm sai thì không được chỉ trích mà phải hỗ trợ”. Rất nhiều câu nói của thầy đều rất có trí tuệ cuộc sống.
Chúng ta thường xuyên đem ra để quán chiếu cái tâm của mình, như vậy thì tiến bộ sẽ rất nhanh. Cho nên khi thấy người khác có điểm tốt thì chúng ta phải giúp cho họ hoàn thành ước nguyện mà không được đố kỵ. Thấy người có chỗ không tốt thì chúng ta không nên phê phán, bởi vì phê phán chỉ làm cho đại chúng mất đi không khí hòa thuận. Cho nên chúng ta phải khuyên can hoặc giữ im lặng. Tại sao phải giữ im lặng? Thời cơ chưa tới. Sự tín nhiệm của họ đối với mình chưa đủ. Có thể khi chúng ta khuyên can, họ lại cho rằng chúng ta làm khó dễ họ hoặc phỉ báng họ. Như vậy thì không hay lắm. Cho nên lúc trước chúng ta cũng có nhắc tới rằng trước khi khuyên người khác thì đầu tiên phải xây dựng nền tảng của sự tin tưởng. Cho nên trong “Luận Ngữ” có nói: “Quân tử tín nhi hậu gián” (Người quân tử phải được lòng tin của người khác rồi sau mới khuyên can) và “vị tín tắc dĩ vi báng kỷ dã” (chưa có lòng tin mà khuyên thì giống như là phỉ báng họ vậy), có thể còn xảy ra hiểu lầm với họ. Như vậy thì thật là không hay.
Khi thấy người khác làm sai, họ đã trót làm ra điều sai trái, một số người bình thường sẽ có phản ứng tiêu cực như: “Các vị làm cái quái gì vậy!”. Con cái bất cẩn làm vỡ cái đĩa, các vị lập tức nói một thôi một hồi như súng liên thanh. Như vậy thì con cái sẽ càng thêm mặc cảm. Cho nên lúc này các vị phải bình lặng lại. Chúng sẽ cảm nhận được rằng cha mẹ của chúng rất có tu dưỡng. Khi chúng ta cùng với chúng thu dọn tàn cục thì trong lòng chúng đã rất là cảm kích rồi. Tiếp thêm một bước, chúng ta kiểm điểm lại một chút tại sao ngày hôm nay lại xảy ra sự việc sai trái này. Như vậy, một chuyện sai trái ngược lại có thể tăng thêm năng lực làm việc của con cái, thậm chí là năng lực làm người. Cho nên khi chúng ta ý thức được như vậy thì cuộc sống của con người với con người rất là hòa thuận.
“Thấy người có chỗ không tốt” tuyệt đối không để ở trong lòng. Nếu để ở trong lòng chính là đem cái tâm thuần khiết trong sạch nhất của chúng ta đựng rác cho mọi người. Như vậy thì thật là ngốc nghếch! Có một vị bạn hữu nói rằng: “Muốn không nhìn thấy điểm không tốt của người khác rất khó. Rất là khó!”. Vậy là vị bạn hữu này liền thỉnh giáo Hòa Thượng Tịnh Không. Hòa Thượng Tịnh Không khuyên anh ấy một phương pháp rất hay. Tôi cũng cảm thấy hay đến nỗi không thể hay hơn được nữa. Ngài nói: “Các vị cứ coi chỗ không tốt của người khác là cái lỗi của mình”. Ví dụ như thấy con cái không ngoan thì các vị sẽ nghĩ: “Đó là lỗi của mình đã không dạy dỗ cho tốt”. Vậy thì các vị phải nhanh chóng mà dạy dỗ đi! Ví dụ nhìn thấy vợ có điều không tốt, các vị nghĩ: “Đều là lỗi của mình, đã không dùng đức hạnh để cảm hóa cô ấy, cũng là mình không tốt”. Nếu như trên đường nhìn thấy người khác không có tâm công đức, các vị nghĩ: “Cũng là lỗi của mình, mình đã không làm tấm gương tốt cho anh ấy noi theo”. Khi con người ở đâu cũng nhìn thấy bổn phận của mình thì sẽ không lãng phí thời gian để trách mắng người khác. Cho nên tôi cảm thấy phương pháp này rất tuyệt diệu và cũng rất có ích.
“Kiến nhân ác” (thấy người xấu) thì có thể “tức nội tỉnh. Hữu tắc cải, vô gia cảnh” (tự kiểm điểm. Có thì sửa, không cảnh giác). Sửa chữa lỗi lầm cũng là một học vấn rất quan trọng. Cho nên, trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” cũng có nhắc tới: “Vị luận hành thiện, tiên tu cải quá”. Nếu như chúng ta chưa thể sửa được những lỗi lầm của chúng ta, thì giống như việc chúng ta đem nước đổ vào một cái thùng bị thủng ở đáy. Chúng ta đem việc làm thiện này ví như là nước và lỗi lầm mà chúng ta chưa sửa chữa được ví như cái lỗ thủng ở dưới đáy thùng. Đó là nói cho dù hôm nay các vị có làm việc thiện, các vị có liên tục đổ nước vào thùng thì cuối cùng nước cũng sẽ chảy hết ra ngoài. Cho nên đầu tiên phải hàn các lỗ thủng lại, sau đó thì những việc thiện này càng tích sẽ càng đầy.
Muốn sửa chữa lỗi lầm thì đầu tiên phải phát tam chủng tâm:
- Thứ nhất là phải phát: “Sỉ tâm” (tâm hổ thẹn)
Tại sao phải phát tâm hổ thẹn? Bởi vì mỗi con người chúng ta đều có rất nhiều tiềm năng, phải nên thông qua sự tu thân của chúng ta để có thể trở thành Thánh Hiền. Cho nên Mạnh Phu Tử mới khuyến khích chúng ta rằng “Thuấn hà nhân dã? Dư hà nhân dã? Hữu vi giả diệc nhược thị”. Rất khó khăn chúng ta mới được làm người. Vậy làm người có dễ không? Không dễ dàng. Đã không dễ dàng thì phải làm cho tốt, nếu không sẽ phụ lòng kỳ vọng của Tổ tiên đối với chúng ta là phải làm “thiên, địa, nhân” tam tài (Thiên là trời, địa là đất và nhân là con người). Vậy thì phải làm sao để làm được “thiên, địa, nhân” tam tài? Đó là phải thể hiện cái đức của thiên, địa. Đất có công đức nuôi dưỡng vạn vật, đất không bỏ rơi bất cứ vật nào mà không thành toàn cho chúng. Cho nên đất có tấm lòng vô cùng rộng lớn, vô cùng bình đẳng.
Như các vị đã thấy chúng ta đem những thứ dơ bẩn nhất cho đất, kết quả đất lại còn chuyển hóa chúng thành những chất dinh dưỡng trả lại cho chúng ta. Giống như một người mẹ, cho dù chúng ta có đại tiện, tiểu tiện thì mẹ cũng thu dọn. Sự hồi đáp của mẹ cũng là sự cống hiến vô tư. Cho nên mới có câu nói: “Địa vi mẫu, thiên vi phụ” (đất là mẹ, trời là cha). Chúng ta phải thông qua cả cuộc đời này của chúng ta để thể hiện cái đức của trời và đất.
Quý vị thân mến! Chúng ta hãy đi xem số lượng của động vật gấp bao nhiêu lần con người? Chỉ cần tính đến số lượng loài kiến sống trong rừng nguyên sinh cộng lại thì đã vượt quá tổng số lượng con người. Các vị có tin như vậy không? Các vị hãy xem một tổ kiến bình thường to như vậy thì có bao nhiêu con kiến? Hơn nữa lại là cả một cánh rừng nguyên sinh. Cho nên được làm thân người thì rất hiếm có! Chúng ta không thể phụ bạc với tấm thân người này, không thể lãng phí nó. Các Ngài có thể trở thành Thánh Hiền thì chúng ta tuyệt đối không thể cả đời mà hoàn toàn không có sự cống hiến nào, thậm chí lại còn là gánh nặng cho gia đình, cho xã hội. Như vậy thì thật đáng hổ thẹn! Cho nên Mạnh Phu Tử mới nói: “Sỉ chi ư nhân đại hĩ” (Tâm hổ thẹn đối với một con người rất quan trọng). Có tâm hổ thẹn thì có thể thành Thánh, thành Hiền. Không có tâm hổ thẹn thì có thể cả đời sống không bằng cầm thú. Cho nên tâm hổ thẹn đối với việc tu dưỡng đạo đức, mở mang công danh sự nghiệp của một người là rất quan trọng. Đây là tâm hổ thẹn.
- Thứ hai là phải phát: “Uý tâm” (Tâm kinh sợ)
Thứ hai là phát “tâm kinh sợ”, cho nên mới nói “Cử đầu ba thước hữu thần minh” (ngẩng đầu ba thước có thần linh). Hơn nữa “nhược yếu nhân bất tri, trừ phi kỷ mạc vi” (nếu muốn người khác không biết, trừ khi chúng ta không làm). Chúng ta thường cảm thấy chúng ta che đậy rất khéo. Thật ra đó là “lừa mình, dối người”. “nhật cửu kiến nhân tâm” (sống lâu mới biết lòng người), khi người ta thấu hiểu được các vị, đến lúc đó các vị không đáng một xu. Bởi vậy chỉ cần chúng ta chịu sửa chữa lỗi lầm thì không bao giờ là muộn.
Cho nên thời xưa có một người một kiếp tạo nghiệp, trước khi lâm chung chợt vô cùng sám hối những việc làm trong cả cuộc đời của mình, và kết quả là ông vẫn được thiện chung (được chết trong an lành). Bởi vậy cho dù “Di thiên tội ác, dã đương bất đắc nhất cá hối tự” (Tội ác tày trời, cũng không thể sánh bằng với một chữ “hối hận”), biết sám hối, biết sửa chữa lỗi lầm là điều rất quan trọng. Cho nên: “Tùng tiền chủng chủng, thí như tạc nhật tử. Dĩ hậu chủng chủng, thí như kim nhật sinh”. Chúng ta hạ quyết tâm từ nay về sau phải là học sinh tốt của các bậc Thánh Hiền, tin rằng cho dù trước đây có phạm phải lỗi lầm gì đi nữa thì cũng có thể bù đắp lại, cũng có thể nhận được sự tôn kính của người khác đối với chúng ta. Điều này cần phải có tâm kinh sợ.
Thực tế mà nói thì “nhân sinh vô thường”, cái thân xác thịt này chúng ta cũng không biết giữ được bao lâu, cho nên sửa chữa lỗi lầm quyết không thể chờ đợi. Đợi đến khi thân mệnh kết thúc thì dù các vị có muốn sửa cũng không được nữa rồi. Tiếng xấu để đời, con cháu có thể còn bị xấu hổ lây. Có những người như vậy không? Có! Chúng ta đến miếu Nhạc Phi ở Hàng Châu xem thấy có đôi vợ chồng Tần Cối. Các vị xem, họ quỳ ở đó để mọi người phỉ nhổ. Họ đã bị phỉ nhổ sắp một nghìn năm. Hơn nữa các vị có bao giờ nghe người ta nói: “Tôi nói cho các vị biết, tôi là con cháu của Tần Cối”. Có hay không? Ông ta có con cháu không? Có, nhưng họ không dám nhận. Bởi vậy Tần Cối làm cho con cháu cũng xấu hổ lây. Những việc như vậy chúng ta không được làm. Cho nên mới phải phát tâm kinh sợ.
- Thứ ba là phải phát: “Dũng tâm” (tâm dũng cảm)
Phải thật dũng cảm để đối trị với thói quen xấu của chúng ta. Tôi còn nhớ lần đầu tiên chú Lô nói chuyện với tôi, đàm luận hơn hai tiếng đồng hồ. Trong đó có một câu làm tôi rất ấn tượng, chú nói: “Đối với bản thân mình phải đuổi cùng diệt tận (dùng từ thật hay), nhưng đối với người khác phải nhân hậu ba phần”. Thực ra điều này giống với nghĩa của những câu Thánh Hiền thường giáo huấn chúng ta như là: “Nghiêm dĩ luật kỷ, khoan dĩ đãi nhân”. Nhưng chú Lô dùng câu “đuổi cùng diệt tận” đã làm cho tôi phải ghi tâm khắc cốt. Cho nên sau này khi đối diện với những thói quen xấu thì các vị không được cầm dao để giải quyết. Nếu vậy tôi sẽ không chịu trách nhiệm. Ở đây tôi muốn nói rằng: “Tuyệt đối không được lùi bước!”.
Cho nên từ câu nói này, tôi nghĩ đến một câu chuyện lịch sử. Đó là vào thời kỳ đầu của Tam Quốc, khi Triệu Tử Long cứu A Đẩu. Triệu Tử Long buộc A Đẩu trước ngực và bị mấy chục vạn đại quân vây bắt. Xin hỏi: Lúc đó ông chỉ nghĩ điều gì? Xông ra ngoài vòng vây, phải bảo vệ A Đẩu.
Cho nên, bây giờ chúng ta muốn nâng cao học vấn của mình thì cũng phải có khí phách như Triệu Tử Long. Thói quen phiền muộn trong quá khứ có nhiều không? Chúng ta phải giống như mấy chục vạn đại quân với thế “dời núi lấp biển” mà xông tới. Lúc này không được có ý lùi bước, bởi chỉ cần các vị lưỡng lự một chút thì đáng nhẽ đã đi được năm bước rồi lại lùi lại mấy chục bước. Các vị sẽ rất ủ rũ mất tinh thần. Cho nên không được có ý lùi bước. Tin rằng các vị nhất định có thể cứu được A Đẩu.
Quý vị thân mến! Ai là A Đẩu? Trong một buổi diễn thuyết tôi có hỏi: “Ai là A Đẩu?”. Những người ngồi bên dưới đều nói A Đẩu là con của Lưu Bị. Đây chỉ là ví dụ. Điều muốn nói ở đây là phải bảo vệ cho tốt cái “tâm bản thiện” của chúng ta, phải chân thật làm cho nó phát huy ra ngoài. Cho nên điều này cần phải có dũng khí, không được lùi bước.
Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” cũng có nhắc rằng đối trị thói quen xấu giống như trị rắn độc cắn ngón tay. Khi bị rắn độc cắn vào ngón tay, lúc này các vị có thể lưỡng lự được không? Các vị có nói: “Liệu có cần phải chữa hay không?”, ở đó mà đắn đo này nọ thì không còn kịp nữa, mạng cũng chẳng còn. Cho nên phải lập tức lấy bảo đao mà chặt đi. Đây chính là “đuổi cùng diệt tận”, không thể để cho thói quen xấu tồn tại nửa giây đồng hồ. Khi có một ý niệm xấu thì lập tức phải chuyển đổi nó. Dùng cách gì để chuyển đổi? Tôi biết rằng trong lòng các vị đã có đáp án về điều này. Cũng có thể dùng Kinh văn để chuyển đổi, dùng Kinh văn để nhắc nhở bản thân. Ví dụ như khi tức giận thì lập tức nghĩ đến câu “phẫn tư nan” (tức giận mất), lập tức nghĩ đến câu “ngôn ngữ nhẫn, phẫn tự mẫn” (lời nhường nhịn, tức giận mất). Các vị có biết tôi dùng phương pháp gì không? Tốt rồi, biết được là rất tốt.
Khi chúng ta nhắc tới: “Kiến nhân ác, tức nội tỉnh. Hữu tắc cải, vô gia cảnh” (Thấy người xấu, tự kiểm điểm. Có thì sửa, không cảnh giác) thì cũng phải có dũng khí để sửa chữa lỗi lầm, có phương pháp để sửa đổi lỗi lầm. Cho nên sửa chữa lỗi lầm có ba mục là sửa lỗi từ sự việc, sửa lỗi từ lý và sửa lỗi từ trong tâm. Vậy thì cũng giống như một cây có độc, các vị muốn sửa đổi từ trong tâm niệm thì phải chặt đứt cái rễ của nó đi, nhổ tận gốc. Đó là sửa chữa từ căn bản. Cho nên một người chân thật biết tu hành, biết tu thân thì luôn luôn biết quán chiếu khởi tâm động niệm của chính mình. Khi họ có thể hiểu được sự thiên lệch của khởi tâm động niệm thì sẽ biết sửa chữa lỗi lầm.
- DUY ĐỨC HỌC, DUY TÀI NGHỆ. BẤT NHƯ NHÂN, ĐƯƠNG TỰ LỆ. NHƯỢC Y PHỤC, NHƯỢC ẨM THỰC. BẤT NHƯ NHÂN, VẬT SANH THÍCH.
Chỉ đức học, chỉ tài nghệ
Không bằng người, phải tự gắng.
Nếu quần áo, hoặc ăn uống
Không bằng người, không nên buồn.
************
21.1. Duy đức học, duy tài nghệ. Bất như nhân, đương tự lệ (Chỉ đức học, chỉ tài nghệ. Không bằng người, phải tự gắng)
Là cha mẹ nếu như có thể để đức hạnh ở hàng đầu, thì đương nhiên sẽ xây dựng được giá trị quan về nhân sinh đúng đắn cho con cái các vị.
************
21.2. Nhược y phục, nhược ẩm thực. Bất như nhân, vật sinh thích (Nếu quần áo, hoặc ăn uống. Không bằng người, không nên buồn)
Chúng ta phải hiểu được rằng cuộc sống không chỉ là không ngừng theo đuổi hưởng lạc vật chất mà thôi. Nếu như là cha mẹ mà chỉ biết đặt chữ “tiền” ở vị trí đầu tiên, vậy thì những đứa con mà họ đào tạo ra cũng sẽ coi tiền ở vị trí đầu tiên, trọng lợi và khinh nghĩa. Lúc đó chúng sẽ tranh tiền tài với ai? Đúng! Cho nên người tính không bằng trời tính.
Vậy thì chúng ta cũng phải suy nghĩ một chút: Đối với ăn uống, đối với áo quần, thậm chí đối với nơi cư trú, có phải có được tất cả cái gọi là hưởng thụ vật chất thì thật sự là tốt đối với cuộc sống hay không? Nếu như một người cả đời đều theo đuổi vật chất, sau đó họ chân thật rất vui vẻ, như vậy thì tôi cũng không có gì để nói. Tôi sẵn sàng thành toàn cho họ, cổ vũ họ. Nhưng vấn đề không phải vậy. Người mà chân thật chỉ hoàn toàn theo đuổi vật chất thì trong nội tâm của họ rất trống rỗng, luôn luôn đua đòi với người khác, hay so đi tính lại. Họ thấy người ta mua xe mới thì trong lòng cảm thấy vô cùng khó chịu. Đó được gọi là tự tìm phiền muộn, tự chuốc lấy phiền phức.
Cho nên tôi hỏi họ rằng: “Mua được một bộ quần áo mới thì vui mừng trong bao lâu?”. “Một phút”. Không đến nỗi thê thảm như vậy! Họ vui mừng trong ba ngày. Có thể khi quẹt thẻ thanh toán thì mất một nửa tiền lương tháng đó. Cho nên họ vui mừng trong ba ngày thì đau khổ trong một tháng. Hơn nữa sau khi mua về thì hôm sau họ lập tức mặc đến công ty và nói với đồng nghiệp rằng: “Các vị có thấy tôi hôm nay có gì khác với mọi ngày không?”. Nếu như gặp phải đồng nghiệp hồ đồ mà trả lời: “Có không? Có khác sao?”, thì họ sẽ phải giận đồng nghiệp muốn chết: “Mình tốn bao nhiêu tiền như vậy, thế mà anh ấy còn không phát hiện ra. Như vậy thì thật là không thú vị chút nào!”. Hơn nữa, họ lại còn phải khổ sở bởi vì người khác không nhìn thấy mình. Luôn luôn suy tính hơn thiệt! Cho nên thú vui này được gọi là hoại khổ (chỉ vui trong chốc lát mà thôi, sau đó thì phải chịu đau khổ). Cho nên thú vui mà con người theo đuổi đều là hư ảo, không có thật.
Niềm vui nào mới có thể làm cho con người vô cùng hạnh phúc, cảm thấy vô cùng có thật lực và niềm vui này từ trong nội tâm tỏa ra ngoài? Đó là những thú vui gì? Hành thiện tối lạc (làm điều thiện là vui nhất). Còn nữa, trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ!”. Niềm vui trưởng thành, những điều này cũng sẽ khiến cho các vị pháp hỷ sung mãn và pháp hỷ sung mãn sẽ theo các vị cả đời.
HẾT TẬP 32. XIN XEM TIẾP TẬP 33!