CON ĐƯỜNG ĐẠT ĐẾN NHÂN SINH HẠNH PHÚC – TẬP 38/40
Chủ giảng: Thầy giáo – Tiến sĩ Thái Lễ Húc
Thời gian giảng: Tháng 2 năm 2005
Chúng ta cũng đã nói rằng phải có duyên người ta mới có thể gặp nhau, có thể cùng nhau công tác, cùng nhau ở chung dưới một mái nhà. Cho nên chúng ta cũng nên quan tâm, yêu thương đối với những người nhân viên, những người giúp việc. Chúng ta cũng phải chỉ bảo con cái cung kính đối với những người nhân viên, những người giúp việc, phải gọi họ là “chú Trần, cô Trần” chẳng hạn, để bọn trẻ từ nhỏ đã phải có thái độ kính trọng đối với tất cả những người lớn tuổi hơn mình.
Vào thời nhà Hán ngày xưa có một học trò tên là Lưu Khoan. Chúng ta nghe tên thì có thể biết được rằng ông là một người khoan hồng, rộng lượng. Bởi vì từ khi ông còn nhỏ, cha ông đã mong đợi ông như vậy cho nên tính nết của ông tương đối là tốt. Người nhà của ông muốn thử xem có thật là ông không biết tức giận không, cho nên đã dặn người làm bưng trà nóng cho ông uống, bưng vào cho ông nhưng lại cố ý làm đổ. Lúc đó đang lúc Lưu Khoan mặc triều phục và phải vào chầu vua, kết quả là trà nóng đổ lên người của ông. Nhưng phản ứng đầu tiên của Lưu Khoan là hỏi người hầu: “Tay của anh có bị bỏng không?”. Khi một người có đức hạnh như vậy, thì tin rằng gia đình của họ sẽ vô cùng vui vẻ, hòa thuận. Họ cũng noi theo đức hạnh của ông. Hơn nữa ông lại là quan lớn trong triều thì cũng ảnh hưởng đến toàn thể triều đình, ảnh hưởng đến toàn thể nhân dân.
************
30.2. Tuy quý đoan, từ như khoan (Tuy đoan chánh, lòng độ lượng)
Chúng ta phải hiểu được chữ “quý” này tuyệt đối không phải để chỉ có địa vị mà thôi, bởi đằng sau địa vị còn có một thứ thực chất còn quan trọng hơn, đó là bổn phận. Khi chúng ta càng có địa vị cao thì gánh vác trách nhiệm đối với xã hội càng nặng hơn. Chúng ta càng phải thận trọng, dè dặt, luôn luôn phải cảm nhận nhu cầu của cấp dưới, cảm nhận nhu cầu của nhân dân thì chúng ta mới xứng đáng đối với địa vị này. Khi chúng ta luôn luôn có ý nghĩ như vậy thì mới thật sự tương hợp với ý nghĩa chân thực của sự phú quý.
Trước đây chúng ta cũng có nói đến như thế nào mới là quý. “Nhân kính giả quý“, khi tất cả mọi người trong lòng đều kính trọng các vị, như vậy mới chân thật là quý nhân. Có rất nhiều người đến nhà chúng ta để giúp việc, gia cảnh của họ cũng rất khó khăn, rất nghèo khổ. Khi họ đã đến nhà của chúng ta, ngoài việc phải yêu thương họ ra thì còn có một điều rất quan trọng nữa là chúng ta cũng cần phải chỉ bảo tận tình cho họ. Có nhiều em chỉ mới mười ba, mười bốn tuổi, cũng không có cơ hội để học nhiều. Chúng ta phải nhanh chóng đem những Kinh điển của Thánh Hiền này ra chỉ dạy cho họ, bởi vì sau này họ cũng phải làm cha, làm mẹ. Sau khi họ có được những quan niệm, tư tưởng đúng đắn như vậy, thì tin rằng cuộc đời của họ nhất định sẽ có sự chuyển biến, gia đình họ sau này nhất định cũng sẽ có được sự phát triển rất tốt.
Thực tế mà nói, chỉ cần chúng ta để tâm thì nhất định có thể làm cho cuộc sống của những người xung quanh chúng ta được tỏa sáng. Đợi đến khi hết duyên và rời khỏi gia đình chúng ta, thì tin rằng họ sẽ luôn luôn quay đầu nghĩ lại giai đoạn này, và trong lòng cũng sẽ cảm thấy vô cùng ấm áp, vô cùng biết ơn. Cho nên mở đầu và kết thúc đều phải tốt đẹp, để khi mỗi một nhân duyên kết thúc thì cũng có được những kỷ niệm tốt đẹp. Đó là: “Đãi tì bộc, thân quý đoan. Tuy quý đoan, từ như khoan” (Đối người ở, thân đoan chánh. Tuy đoan chánh, lòng độ lượng).
Nếu như họ là khách thuê trọ trong nhà chúng ta, khách thuê trọ có mối quan hệ với chủ nhà bằng tiền bạc, nhưng cũng là ở cùng dưới một mái nhà. Cho nên chúng ta gặp mặt cũng phải có ba phần tình cảm với họ mới được. Nếu như chúng ta cũng chỉ là xây dựng quan hệ trên nền tảng tiền bạc mà thôi, khi gặp mặt cũng không chào hỏi nhau thì như vậy họ sẽ có bệnh và các vị cũng có bệnh. Cho nên chúng ta cũng nên quý trọng cái duyên phận này. Ví như có món gì ngon, hoặc có đồ gì còn mặc tốt chúng ta cũng chủ động đem cho họ một chút, thì tin rằng họ cũng sẽ cảm thấy ấm áp. Suy cho cùng đa số họ là những người xa quê hương. Khi chúng ta tỏ ra quan tâm họ thì đã thực hiện được câu giáo huấn của Thánh Hiền là: “Tứ hải chi nội giai huynh đệ dã”. Các vị độ lượng như vậy, sau này khi các vị đi các nơi khác thì tin rằng sẽ có rất nhiều người cũng coi các vị như huynh đệ, coi các vị như là người trong nhà.
30.3. Thế phục nhân, tâm bất nhiên. Lý phục nhân, phương vô ngôn (Thế phục người, người không phục. Lý phục người, tâm mới phục)
Nếu như chúng ta dùng uy quyền, dùng địa vị của mình để chèn ép người khác thì trong lòng họ sẽ không nể phục. Tuy rằng ngoài mặt đối với chúng ta rất cung kính, nhưng sau khi cúi chào cung kính rồi, chúng ta vừa đi khỏi thì họ cũng có thể sẽ trở mặt, sẽ trách mắng hoặc nguyền rủa chúng ta. Nếu như chúng ta chỉ có được sự kính trọng ngoài mặt của người khác, thì chúng ta cũng nên kiểm điểm lại bản thân. Bởi vì sự tôn trọng như vậy rất là phù phiếm và giả dối, mà yêu cầu của nhân sinh thì lại rất thực tế, phải là một nhân sinh chân thực.
Có một em nhỏ nói rằng: “Mẹ em đánh em. Trong quá trình trưởng thành, mẹ đánh em, em đều quên hết, nhưng em lại nhớ hết mỗi lần cha đánh em”. Cũng đều là sự trừng phạt nhưng tại sao lại lệch nhau đến vậy? Tại sao? Mẹ đánh nó động cơ là gì? Là yêu thương nó, là dạy dỗ nó. Cho nên sau khi bị mẹ đánh xong trong lòng nó biết được rằng nó đã sai và sẽ đi sửa sai. Nhưng động cơ của cha khi đánh nó không phải là để dạy bảo, mà có thể khi cơn giận nổi lên thì cha đánh nó một trận. Cho nên trong lòng nó rất không phục cha và mỗi lần ăn đòn nó cũng đều nhớ rõ. Bọn trẻ cũng rất biết chúng ta dùng thái độ gì để đối xử với chúng. Chúng cảm nhận được rất rõ ràng. Cho nên chúng ta phải “lý phục nhân, phương vô ngôn” (lý phục người, tâm mới phục).
Gia đình phải như vậy, trong công việc, trong công ty của chúng ta cũng phải như vậy. Cho nên người làm lãnh đạo cũng nhất định phải có quy củ. Không thể hôm nay thích người này thì các vị trọng dụng họ, ngày mai không thích nữa, cho dù họ có năng lực thì các vị vẫn cứ chèn ép họ. Dùng quyền lực để ép buộc người khác thì không thể giành được lòng người ủng hộ. Nên tuân thủ cái đạo lý này, lấy lý để làm cho người khác nể phục thì chúng ta mới không có dị nghị. Phải dùng sự bình đẳng thì chúng ta mới có thể làm cho lòng người được bình hòa. Phải dùng sự quan tâm, phải dùng sự thương yêu, kính trọng thì chúng ta mới có thể làm cho không khí của cả tập thể càng ngày càng vui vẻ, hòa thuận, càng ngày càng ôn hòa.
Hãy xem lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc chúng ta. Triều đại nào chỉ dùng quyền lực, dùng vũ lực để chiếm lấy thiên hạ thì thời gian tồn tại của triều đại đó không được lâu dài. Còn những triều đại lấy đạo đức, lấy “hiếu”, “đễ” để giáo hóa nhân dân, lấy thân làm gương thì thời gian tồn tại của triều đại đó được lâu dài hơn, hơn nữa lại có được sự ảnh hưởng rất sâu xa đến đời sau.
Chúng ta hãy xem, triều đại nào ở Trung Quốc duy trì lâu dài nhất? Thời nhà Chu là lấy đức để trị thiên hạ, lấy lý lẽ để làm cho người khác phải kính phục. Chúng ta hãy xem, dùng vũ lực để chiếm lấy thiên hạ như triều đại nhà Tần chỉ có được mấy mươi năm thì bị lật đổ. Cho nên từ trong lịch sử chúng ta cũng có thể học được rất nhiều tấm gương là muốn quản lý gia đình, quản lý xí nghiệp được lâu dài, an ổn thì chúng ta tuyệt đối phải dùng đạo đức, tuyệt đối phải dùng lý trí mới có thể cảm được lòng người. Lịch sử đã cho chúng ta xem xét những việc quá khứ để có thể đoán biết được tương lai. Cuộc sống không nên lại đi vào vết xe đổ của người xưa. Như vậy mới không phụ lòng Tổ tiên chúng ta đã để lại “Nhị Thập Ngũ Sử” (Tuyển tập 25 cuốn sách sử Trung Quốc) để giúp đỡ cho cuộc đời của chúng ta. Đây là câu Kinh văn cuối cùng trong “Phiếm ái chúng”.
“Phiếm ái chúng” (bình đẳng thương yêu tất cả chúng sanh), dùng danh từ thời nay thì được gọi là học vấn của mối quan hệ giữa người với người. Làm thế nào để cho mối quan hệ giữa người với người được tốt hơn? Đó là phải thực hiện những giáo huấn “Phiếm ái chúng” trong “Đệ Tử Quy”. Thật ra để thương yêu được tất cả đại chúng thì trước tiên chúng ta cũng phải bắt đầu từ cơ bản là “hiếu” và “đễ“. Có người nào mà ngay lập tức liền có thể thương yêu tất cả mọi người? Nhất định chúng ta phải bắt đầu học quan tâm người khác, biết nghĩ cho người khác từ trong gia đình. Cho nên trong “Luận Ngữ” Khổng Phu Tử mới nói rằng: “Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dữ?”, năng lực trong mối quan hệ giữa người với người tất nhiên là đều xuất phát từ gia đình. Nhân cách của một người được xây dựng khi còn ở trong gia đình. Cho nên chúng ta là cha mẹ thì nhất định phải rất cẩn thận, bởi vì sự giáo dục của gia đình hàng ngày sẽ ăn sâu vào tiềm thức.
Chúng ta chỉnh lý mối quan hệ giữa người với người thành một chữ “nhường“, “nhường” trong nhường nhịn, “nhượng tắc hữu dư, tranh tắc bất túc”. Cho nên con người chung sống với nhau phải biết nhường nhịn. Nhường nhịn là cự ly tốt đẹp nhất của người với người.
Khi gặp được một người bạn rất lịch sự thì các vị có cảm giác rất thoải mái, rất vui vẻ. Cho nên thái độ lễ độ này là cự ly tốt đẹp nhất giữa người với người. Cho dù là người thân đến mấy, hoặc là vợ chồng, là cha con cũng phải dùng lễ nghi để đối xử với nhau, không thể vì quá thân mà không tôn trọng họ nữa. Ví dụ như chúng ta vào phòng người khác cũng không gõ cửa mà cứ đi vào, một lần, hai lần thì có thể họ còn chấp nhận, nhưng nhiều lần thì họ sẽ oán giận. Cho nên người thân đến mấy cũng phải tôn trọng, cũng phải lấy lễ nghi để đối xử, để duy trì cự ly tốt đẹp nhất. Khi bọn trẻ từ nhỏ đã biết lấy lễ nghĩa để đối xử với người khác thì trẻ nhỏ sẽ trở thành người hiểu được chừng mực, trở thành người có chừng mực. Cho nên học lễ nghĩa cũng rất quan trọng.
Thật ra tất cả những lời giáo huấn trong “Đệ Tử Quy” đều có liên quan đến lễ nghĩa:
- Chương thứ nhất, “Nhập tắc hiếu” (Ở nhà phải hiếu): Cung kính đối với cha mẹ cũng là lễ nghĩa.
- Chương thứ hai, “Xuất tắc đễ”: Anh em yêu thương lẫn nhau, tôn trọng trưởng bối cũng là lễ nghĩa.
- Chương thứ ba, “Cẩn” (cẩn thận): Đối với vật phẩm cũng phải quý trọng, đồ vật phải có định vị, đối với thực phẩm không được lãng phí, “đối ẩm thực, bất giản trạch” (với ăn uống, chớ kén chọn), cho nên đây là dùng thái độ lễ nghĩa để đối xử với thực phẩm.
- Chương thứ tư, “Tín”: “Phàm xuất ngôn, tín vi tiên” (Phàm nói ra, tín trước tiên) cũng là lễ phép trong lời nói của chúng ta đối với người khác. Những lời đã nói ra thì không thể không thực hiện, nếu không thì sẽ thất tín, sẽ thất lễ. Trong “Nhạc Kinh” có nhắc tới: “Lễ giả thiên địa chi tự dã”, cho nên chữ “lễ” trong lễ phép tương thông với đạo lý. Tục ngữ có câu: “Hữu lý tẩu biến thiên hạ”, đó là quy luật rất tự nhiên giữa người với người. Chúng ta không thể vượt quá cái quy luật này, nếu không sẽ xảy ra xung đột.
- Chương thứ năm, “Phiếm ái chúng” (Bình đẳng thương yêu tất cả chúng sinh): Đây cũng là thái độ lễ phép.
- Chương thứ sáu, “Thân nhân” (Gần người hiền)
- Chương thứ bảy, “Dư lực học văn” (Có thừa sức, thì học văn)
Ở hai chương “Thân nhân” và “Dư lực học văn”, đương nhiên là đối với nhân đức, đối với thầy cô giáo thì chúng ta nhất định phải lấy lễ để đối xử. Đối với học vấn, chúng ta cũng phải dùng sự kính trọng để đối xử. Cho nên mới nói: “Nhất phần thành kính đắc nhất phần lợi ích, thập phần thành kính, đắc thập phần lợi ích” (Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích).
Bản chất của lễ nghĩa là lòng cung kính, mà lòng cung kính là bản thiện của chúng ta, là chân tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta phải học lễ nghĩa, nhường nhịn. Con người chung sống với nhau cũng cần phải học cách nhẫn nhịn, nhân nhượng.
Chúng ta hãy xem chữ “nhẫn”, có một con dao và còn có một chữ “tâm“. Đây là chữ hội ý, thể hiện bản lãnh của chữ “nhẫn” phải đạt đến trình độ nào? Người ta dùng dao dí vào ngực các vị, các vị cũng không vì thế mà dao động. Thực sự thì đây không phải là người ta cầm dao dí vào ngực các vị, mà con dao nhọn này đại diện cho những lời nói sắc nhọn của người khác phỉ báng, chế nhạo các vị. Những lúc này thì các vị cũng phải có thể nhẫn nhịn được. Bởi chúng ta phải hiểu rằng, những phản ứng tình cảm này cũng chỉ là tạm thời. Chúng ta không nên chấp với họ mà phải có thái độ bao dung.
Có một câu cách ngôn nói rằng: “Dĩ thứ kỷ chi tâm thứ nhân, tắc toàn giao, dĩ trách nhân chi tâm trách kỷ, tắc quả quá”. Thật ra có rất nhiều thái độ, chỉ cần thay đổi quan niệm thì có thể từ địa ngục lên đến thiên đường. Người có cùng tâm lý giống nhau thì dễ thông cảm cho nhau. Hàng ngày chúng ta tha thứ cho mình rất nhiều lần. Vậy mà khi người khác phạm phải sai lầm thì tâm tình chúng ta lại không kìm nén nổi. Cho nên chúng ta phải thay đổi vị trí, lấy lòng tha thứ cho mình để tha thứ cho người. Như vậy thì người khác sống với chúng ta sẽ cảm thấy rất thoải mái, không có áp lực. Cho nên chúng ta có thể “toàn giao”, có thể kết giao với rất nhiều bạn bè. “Dĩ trách nhân”, chúng ta hàng ngày đều nhìn thấy người khác có rất nhiều lỗi lầm. Vậy hãy dùng thái độ đó (thái độ chỉ trích người khác) để kiểm điểm lại bản thân, xét lại bản thân. Như vậy thì đức hạnh của chúng ta sẽ tiến bộ nhanh chóng. Nhờ vậy, chúng ta mới có thể ít phạm sai lầm. Cho nên điều quan trọng nhất trong sự nhường nhịn đó là phải có một tấm lòng tha thứ.
Tử Cống từng hỏi Khổng Phu Tử rằng: “Thưa Phu Tử! Có chữ gì mà có thể phụng hành cả đời?”. Khổng Phu Tử liền đưa ra chữ “thứ”, chữ “thứ” trong “khoan thứ”, “tha thứ”. Thật ra ý nghĩa của chữ “thứ” với chữ “nhân” trong “nhân ái” hoàn toàn dung hòa với nhau. “Thứ giả như kỳ tâm”, chữ “thứ” bên trên là chữ “như”, bên dưới là chữ “tâm”, đó là luôn luôn suy nghĩ từ góc độ của người khác thì tự nhiên có rất nhiều xung đột sẽ được giải quyết.
Cho nên khi một người hiểu được “nhẫn nhịn” thì vô hình trung có thể hóa giải can qua thành vô hình, người tiếp xúc với người rất là bình thường. Bởi vậy nếu chúng ta nhẫn nhịn được thì có thể hóa giải được rất nhiều xung đột. Có thể nhẫn nhịn thì có thể “hóa can qua”, sự tức giận thành vô hình. Tục ngữ có câu: “Nhẫn nhất thời phong bình lãng tịnh, thoái nhất bộ hải khoát thiên không” (nhịn một lúc gió ngừng biển lặng, lùi một bước trời cao đất rộng).
Thật ra trong lúc nhẫn nhịn, chúng ta đã mở rộng tấm lòng. Vậy là chúng ta đã thực hiện được câu: “Lý phục nhân, phương vô ngôn” (Lý phục người, tâm mới phục), và cũng sẽ thức tỉnh lòng hổ thẹn của họ. Bởi rốt cuộc khi một người đang nóng giận thì luôn luôn sẽ bị cảm tính hóa. Đợi đến khi họ bình tĩnh trở lại thì sẽ cảm thấy mình đuối lý. Cho nên sự nhẫn nhịn này đã nhẫn nhịn ra đức hạnh của mình, cũng nhẫn nhịn ra sự hổ thẹn của đối phương, hơn nữa còn duy trì được mối quan hệ giữa hai bên.
Bất kể là duyên phận đối với người thân hay bạn bè thì cũng rất khó mà có được, bởi vậy đừng để cho tình bạn trong nhiều năm chỉ vì một câu nói đau lòng mà mất hết. Như vậy thật không tốt. Cho nên lúc này chúng ta phải nghĩ đến “ngôn ngữ nhẫn, phẫn tự mẫn” (lời nhường nhịn, tức giận mất), nhất định phải kìm nén tâm trạng, kìm nén sự tức giận.
Người với người sống chung với nhau, ngoại trừ việc phải “lễ nhượng” ra thì còn phải “nhẫn nhịn”, tiếp đến còn phải “khiêm nhượng”. Khi chúng ta hiểu được “khiêm nhượng” thì người khác như được tắm trong gió xuân. Ngược lại khi chúng ta có tiền của, có tài mà dương dương đắc ý thì thái độ kiêu ngạo này sẽ làm cho bạn bè, người thân xung quanh cảm thấy bị áp lực.
Các vị xem, khi chúng ta còn nhỏ, một số bạn học sau khi thi xong, thành tích của họ rất là tốt. Họ nói với chúng ta rằng họ về nhà cũng không ôn bài mà thi được như vậy. Chúng ta về nhà ôn bài rất vất vả thế mà khi thi lại không bằng họ. Rồi họ nói với các vị: “Tôi về nhà cũng chỉ chơi thôi, không ôn bài gì cả”. Thái độ như vậy là không tốt. Khi người khác đang không được như ý, mà các vị lại kể những việc các vị đắc ý thì làm cho người ta không còn mặt mũi nào nữa. Thái độ kiêu ngạo này làm người khác bị áp lực, sẽ làm tổn thương ấn tượng tốt, quan hệ tốt giữa người với người. Cho nên, “khiêm nhượng” rất quan trọng.
Lễ nhượng, nhẫn nhịn và tiếp đến là khiêm nhượng. Chúng ta khiêm nhượng có thể để lối thoát cho người khác, không nên để cho người khác cảm thấy kém cỏi hơn mình. Như vậy thì họ rất khó chịu. Ngoài việc để cho người khác cảm thấy thoải mái, dễ chịu, khi chúng ta khiêm tốn thì sẽ học được rất nhiều. Có thể có rất nhiều trưởng bối muốn dìu dắt, hướng dẫn cho chúng ta. Cho nên chữ “khiêm” có rất nhiều ích lợi.
Trong “Kinh Dịch” có nói: “Khiêm quái lục hào giai cát” (sáu hào trong quẻ khiêm đều tốt). Khi chúng ta luôn luôn giấu tài, luôn luôn để lối thoát cho người khác thì từ từ sẽ trở thành một người luôn luôn biết nghĩ cho người khác. Khi chúng ta:
- dạy bảo con cái từ nhỏ đã biết lễ nhượng thì chúng cũng sẽ trở thành người biết chừng mực;
- dạy bảo cho con cái nhẫn nhịn thì chúng có thể sống hòa thuận với người khác mà không xảy ra xung đột;
- dạy bảo con cái biết khiêm nhượng thì chúng sẽ luôn luôn khiêm tốn, biết nghĩ cho người khác, biết để lối thoát cho người khác.
Bởi vậy chúng ta không nên tranh giành. Vì tranh giành thì nhất định sẽ bắt đầu từ cạnh tranh, cuối cùng sẽ trở thành đấu tranh, tiếp đến sẽ là chiến tranh. Cho nên nhường nhịn có thể có được tình bạn, tranh giành tất nhiên sẽ có thêm kẻ thù. Cuối cùng thì đại đa số sức lực của cuộc sống đều tổn hao vào việc làm sao để phòng chống người khác làm hại mình. Sống như vậy thì rất là mệt mỏi.
CHƯƠNG THỨ SÁU
THÂN NHÂN (Gần người hiền)
Chúng ta đi vào chương thứ sáu là “Thân nhân” (Gần người hiền). Chữ “thân” trong chữ “Thân nhân” là thân cận, ý nghĩa là học tập, thân cận người nhân đức. Học vấn của một người muốn được thành tựu thì có hai yếu tố tiên quyết: Một là có thầy giỏi, hai là có bạn học tốt. Thầy giỏi chỉ đường giúp chúng ta, đem những lời giáo huấn quan trọng chỉ dạy cho chúng ta. Bạn học tốt có thể dìu dắt, nhắc nhở lẫn nhau. Nếu có thể có thái độ “thiện tương khuyến, đức giai kiến” (cùng khuyên thiện, cùng lập đức) và có thể “văn dự khổng, văn quá hân” (nghe khen sợ, nghe lỗi vui) thì nhất định sẽ có được “trực lượng sĩ, tiệm tương thân” (người hiền lương, dần gần gũi).
Các vị xem, có phải “Đệ Tử Quy” có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của nhân sinh không? Sau này khi có người hỏi các vị những vấn đề về nhân sinh thì các vị không còn căng thẳng nữa. Chỉ cần một quyển “Đệ Tử Quy” là đảm bảo các vị không có gì phải lo lắng cả. Các vị có tin như vậy không? Phải có đủ lòng tin như vậy.
Mối quan hệ vợ chồng
Có một hôm có người hỏi các vị cuộc sống của vợ chồng họ không được tốt thì phải làm sao. Bây giờ các vị phải giúp đỡ họ. Nào! Cuộc sống vợ chồng không được tốt thì phải làm sao? Các vị phải nói câu gì với họ? Vì họ không biết nên bạn phải dùng quan niệm gì để chỉ dẫn họ hóa giải sự xung đột giữa vợ chồng?
- “Ân dục báo, oán dục vong” (Ân phải báo, oán phải quên), đó là bởi vì chúng ta chỉ nghĩ đến oán hận thì mới ở đó mà giận dỗi, nếu luôn luôn nghĩ đến sự cống hiến của đối phương thì sự giận dỗi đó có thể giảm đi phân nửa.
- “Tương gia nhân, tiên vấn kỷ” (Sắp cho người, trước hỏi mình), không nên luôn luôn đòi hỏi người khác mà phải xem mình làm được bao nhiêu.
- “Ngôn ngữ nhẫn, phẫn tự mẫn” (Lời nhường nhịn, tức giận mất), biết cẩn thận lời nói, có tâm nhẫn nại, có thể bao dung nhịn nhường thì lòng oán hận sẽ tự nhiên biến mất.
- “Thân hữu quá, gián sứ canh, di ngô sắc” (Cha mẹ lỗi, khuyên thay đổi, mặt ta vui), khi nói mà sắc mặt khó coi thì ai mà tiếp thu, như vậy nhất định sẽ xảy ra xung đột.
Cho nên khi bạn nói ra mấy câu Kinh văn này thì họ có thể tự kiểm điểm lại mình. Vấn đề nan giải này sẽ từ từ được hóa giải. Nếu như họ mà không tự kiểm điểm lại mình thì đảm bảo rằng bài toán này sẽ không có cách giải. Cho nên cương lĩnh về đạo lý nhân sinh đã bao hàm trong “Đệ Tử Quy”. Chỉ cần bạn nghiên cứu kỹ “Đệ Tử Quy”, thực hành theo thì sẽ mở mang trí tuệ.
Mối quan hệ thầy trò
Trong quan hệ giữa thầy và trò, quan hệ giữa bạn học với nhau, chúng ta cũng cần nắm bắt được “Thiện tương khuyến, đức giai kiến” (Cùng khuyên thiện, cùng lập đức). Thái độ khi đối diện với thầy giáo thì phải làm sao để học tập thầy giáo? “Phụ mẫu hô, ứng vật hoãn. Phụ mẫu mệnh, hành vật lãn” (Cha mẹ gọi, trả lời ngay. Cha mẹ bảo, chớ làm biếng), những bài học mà thầy giáo dạy, chúng ta có được cắt giảm bớt không? Không được. Cho nên chỉ cần thầy giáo sai bảo là chúng ta phải nhanh chóng thực hiện, không được trì hoãn.
Thời nay làm thầy giáo cũng rất khó, thầy giáo rất sợ gây thù, kết oán với học sinh. Nếu học sinh mà trì hoãn như vậy, thấy các vị không mấy vừa lòng thì thầy giáo cũng sẽ rất tôn trọng các vị để tránh đắc tội với các vị. Nếu như các vị làm theo lời chỉ bảo, thì thầy cô giáo nhất định sẽ tận tâm, tận lực để chỉ dạy.
Cho nên chỉ cần chúng ta có thái độ “hiếu” trong “nhập tắc hiếu” (ở nhà phải hiếu) để đối xử với thầy cô giáo, thì tự tính lương thiện của chúng ta đã hiển lộ ra bên ngoài và chúng ta cũng có thể nhanh chóng xây dựng được lý trí. Khi chúng ta lấy lòng chí thành, hiếu thảo, lòng cung kính để đối xử với thầy cô giáo thì tự tính lương thiện, trí tuệ của chúng ta sẽ nhanh chóng có thể biểu lộ ra ngoài.
Dân tộc chúng ta có hai tinh thần quan trọng đó là “hiếu đạo” và “sư đạo“. “Sư đạo” cũng được xây dựng trên nền tảng của “hiếu đạo“. Cho nên mới nói: “Phù hiếu, đức chi bản dã”, căn bản của “đạo đức” là ở chữ “hiếu“. Người biết hiếu thuận với cha mẹ thì họ nhất định sẽ mong muốn mình có sự thành tựu để lưu danh hậu thế, để cha mẹ được vinh hiển. Cho nên đối với thầy cô, họ nhất định cũng sẽ vô cùng kính trọng.
Hợp tác giữa thầy cô giáo và phụ huynh
Chúng ta cũng đã nói đến sự hợp tác giữa thầy cô và cha mẹ. Nếu giữa cha mẹ và thầy cô mà có sự hợp tác mật thiết thì có thể dạy bảo bọn trẻ được rất tốt. Tình trạng hợp tác giữa thầy cô với cha mẹ thời nay có được tốt không? Một là phụ huynh không nhận thức được sự quan trọng của giáo dục trong gia đình. Sau đó có phụ huynh lại cảm thấy việc giáo dục con cái là việc của thầy cô. Hơn nữa, cũng do cưng chiều con cái, cho nên ở trường có xảy ra chuyện gì, ví dụ như thầy giáo có mắng đứa bé này nhiều quá, đứa bé về nhà cũng không biết đã truyền đạt lại như thế nào mà phụ huynh nghe xong thì nổi giận đùng đùng. Rồi phụ huynh đi tìm thầy giáo, thậm chí lại còn muốn trực tiếp đi gặp Hiệu trưởng để làm rõ sự tình, làm cho sự việc càng phức tạp hơn.
Bởi vì Hiệu trưởng cũng không có mặt tại hiện trường, hơn nữa ban đầu thầy giáo cũng chỉ là muốn răn dạy con cái của các vị, cũng hy vọng uốn nắn chúng, lúc đó họ cũng muốn tốt cho con cái các vị, nhưng các vị làm ra hành động này thì có thể Hiệu trưởng sẽ phải đi gặp thầy giáo để nói chuyện. Thế là lòng nhiệt tình của người thầy đã bị dập tắt. Các vị không chỉ làm ảnh hưởng đến tâm tình của thầy giáo, và càng phiền phức hơn nữa là làm ảnh hưởng đến thái độ của con cái các vị đối với thầy giáo.
Trong sự học thì “nhất phần thành kính, đắc nhất phần lợi ích” (một phần thành kính được một phần lợi ích). Khi con cái thấy động một cái là cha mẹ đi kiện thầy giáo, vậy thì chúng không còn tôn trọng thầy giáo. Khi thầy giáo không dám dạy bảo nữa thì bọn trẻ làm sao mà có được đạo đức, làm sao mà hiếu thảo cho được! Cho nên đây là một vòng tuần hoàn ác tính.
Đương nhiên chúng ta là thầy cô giáo thì cũng phải tự kiểm điểm lại mình, tuyệt đối không thể cầu xin học sinh hay phụ huynh phải tôn trọng chúng ta. Thời nay không thể cầu xin như vậy được, bởi vì “sư đạo” cũng có sự suy thoái rồi. Phải nói như thế nào nhỉ? Đó là giống như khi tôi thi vào trường sư phạm làm thầy giáo, sau đó gặp rất nhiều bạn bè. Câu đầu tiên họ hỏi tôi cái gì? “Tiền lương một tháng của anh là bao nhiêu?”. Như vậy có sư đạo không? Tại sao không có người nào gặp tôi và nói: “Anh đã thi vào trường sư phạm làm thầy giáo. Hàn Dũ có câu nói: “Sư giả, sở dĩ truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc dã”. Nếu nghe được như vậy thì tôi nhất định sẽ tràn đầy niềm vui. Họ lại không nói với tôi rằng: “Muốn giải đáp sự nghi hoặc của người khác thì trước tiên phải giải đáp được sự nghi hoặc của chính mình. Cho nên làm thầy giáo vẫn phải tiếp tục học tập, học làm thầy giáo thì phải khai mở trí tuệ mới được”. Nếu họ nói như vậy thì đối với nghề thầy giáo tôi nhất định sẽ đầy ắp động lực, hơn nữa cũng không dám buông lơi. Cho nên “sư đạo” cũng cần những người làm thầy cô như chúng ta đi xây dựng lại, chứ không thể đi cầu xin sự tôn trọng của học sinh hay phụ huynh.
Có rất nhiều thầy cô giáo ở Hải Khẩu cũng tận tâm, tận lực đi dạy “Đệ Tử Quy”, thực hiện “Đệ Tử Quy”. Có một bà mẹ đã viết vào sổ liên lạc: “Vô cùng cảm tạ! Vô cùng cảm tạ! Vô cùng cảm tạ!”. Bà dùng liền ba câu “vô cùng cảm tạ!” để nói lời cảm ơn với thầy giáo. Có một vị phụ huynh quê ở nội địa, trước hôm ba mươi Tết, khi đang chuẩn bị lên máy bay từ sân bay ở Hải Khẩu để về quê ăn Tết, ông đã ở sân bay gọi điện thoại cho thầy giáo của con ông và nói rằng: “Thưa thầy Lưu! Hiện nay cả gia đình chúng tôi chuẩn bị về nội địa ăn Tết, cho nên tôi đặc biệt gọi điện cho thầy để cáo từ”. Điều này thể hiện rằng vị phu huynh này đối với thầy giáo rất kính trọng. Sự vô cùng kính trọng này là kết quả. Vậy nguyên nhân ở đâu? Là do sự cống hiến chân thành của thầy giáo khiến cho phụ huynh cũng có thể cảm nhận được. Sự tôn nghiêm của “sư đạo” cần phải nhờ vào sự giáo dục con cái của phụ huynh, và cũng phải dựa vào chính bản thân các thầy cô giáo làm gương tốt cho người ta tôn trọng.
Ý nghĩa lễ bái sư
Người thầy giáo vào thời xưa thì chân thật sống rất thanh bần, đạo hạnh rất được đại chúng trong xã hội tôn trọng. Phụ huynh chân thật cũng rất biết nắm lấy cơ hội để dạy bảo con cái kính trọng đối với thầy giáo. Cho nên thời xưa thường có lễ ra mắt thầy. Người cha dẫn theo đứa con, đứa bé có thể lên năm, sáu tuổi hoặc bẩy, tám tuổi, đầu tiên là hành đại lễ “tam quỳ, cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu) trước tượng của Khổng Phu Tử. Bởi vì những giáo huấn của tất cả các Thánh nhân như “Ngũ Kinh” đều được Khổng Phu Tử điều chỉnh, kiện toàn khiến nó trở nên vô cùng hoàn thiện. Cho nên dân tộc chúng ta tôn kính Khổng Phu Tử lên thành “Chí Thánh Tiên Sư”.
Khi hành lễ bái sư, đầu tiên, mọi người phải quỳ lạy ba lần, dập đầu chín lần để hành lễ với Khổng Phu Tử. Sau khi hành lễ xong thì thầy giáo thượng tọa, sau đó người cha dắt theo đứa bé cũng hành lễ “tam quỳ, cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu) đối với thầy giáo. Đối với đứa bé năm, sáu tuổi thì người được chúng tôn trọng nhất là cha mẹ, đặc biệt là người cha. Bởi vì “phụ nghiêm, mẫu từ“, đối với người cha thì trẻ nhỏ cũng rất là kính sợ. Kết quả khi người cha đối với thầy giáo lại cung kính như vậy thì trong tâm hồn non nớt của trẻ nhỏ, đối với thầy giáo chúng nhất định là không dám thờ ơ chậm trễ, không dám khinh suất mà vô cùng kính trọng.
Tuy chỉ là một lễ nghi “tam quỳ, cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu), nhưng đã làm cho sự học hành của bọn trẻ đã có gốc, có căn bản. Đó là sự kính trọng. Thời nay không còn có lễ nghi này nữa. Năm thứ nhất khi tôi làm thầy giáo, lúc đó có dạy một lớp 6, có một bà cụ khoảng sáu, bảy mươi tuổi, cháu của bà quên không đem vở bài tập đến lớp, bà cụ giúp cháu đem tới. Bà phải leo bốn tầng lầu, leo đến nỗi có chút thở gấp. Đương nhiên bà cụ giúp cháu như vậy là không đúng. Cháu đã lớn như vậy rồi thì phải tự chịu trách nhiệm với sai lầm của mình. Nếu không, có thể cả đời nó sẽ không học được tinh thần có trách nhiệm.
Kết quả khi tôi vừa nhìn thấy vị trưởng bối này, bà ngẩng đầu lên cũng nhìn thấy tôi thì liền lập tức gập người xuống tới chín mươi độ để cúi chào tôi. Bà nói: “Thầy Thái! Chào thầy!”. Cái cúi chào đó làm cho lòng tôi cảm thấy khác thường: “Liệu hai chữ “thầy giáo” đó gánh vác có dễ không?”. Các vị có biết tại sao tôi có chút còng lưng không? Trưởng bối cúi chào và nói: “Chào thầy giáo!” như vậy, thì đó là trách nhiệm nặng nề. Chúng ta mà không cố gắng giáo dục con cháu của họ thì làm sao mà xứng đáng với cái cúi chào chân thành này.
Cho nên tôi mới chợt hiểu ra rằng, thời xưa khi hành lễ bái sư, khi người cha của đứa bé hành lễ “tam quỳ, cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu) với thầy giáo, xin hỏi: Trong lòng của vị thầy giáo có cảm nhận như thế nào? Trách nhiệm. Người ta đối xử với mình như vậy, nếu như mình không giáo dục tốt con cái của người ta thì làm sao mà xứng đáng! Cho nên trong lòng người thầy giống như có đeo một khối đá lớn. Đợi đến khi bọn trẻ chân thật có thành tựu thì trong lòng người thầy mới có một chút an ủi.
Cho nên những vị thầy giáo ngồi bên trên để cho người ta cúi lạy thì không có cảm giác rất thoải mái dễ chịu, mà có cảm giác nơm nớp lo sợ, như đến gần vực thẳm, như đi trên băng mỏng. Thầy giáo không chỉ nghĩ đến trách nhiệm đối với con cái của họ, đến gia đình họ mà còn vì không muốn sự truyền thừa đạo nghĩa văn hóa ngàn năm của Tổ Tông đến đời mình thì bị thất truyền. Cho nên đây cũng là bổn phận mà họ luôn luôn ghi nhớ. Đạo Nho đặc biệt nhấn mạnh đến kế nghiệp thầy. Cái gì gọi là kế nghiệp thầy? Điều này đáng để chúng ta tìm hiểu.
Ba điều kiện phải tuân thủ khi học tập Thánh Hiền
Thầy của tôi là Hòa Thượng Thích Tịnh Không. Ngài đến Đài Trung để thụ giáo với thầy giáo Lý Bỉnh Nam. Lần đầu tiên đến, thầy Lý nói với Ngài rằng: “Nếu con theo học thì có ba điều kiện nhất định con phải tuân thủ. Con phải tuân thủ thì ta mới dạy con. Điều thứ nhất là chỉ được nghe lời của ta. Điều thứ hai là những sách muốn xem, những vật muốn tiếp cận phải được sự đồng ý của ta mới được xem. Điều thứ ba là những điều trước đây con học được, ta đều không thừa nhận”. Bởi vì thầy của tôi (Hòa Thượng Thích Tịnh Không) lúc đó cũng đã đi giảng giải, giảng Kinh giúp người khác. Kết quả thầy Lý lại nói rằng những gì Ngài học trước đây đều không được thừa nhận thì trong lòng Ngài sẽ làm sao?
Chúng ta hãy xem xét kỹ càng ba quy định này. Chúng ta không nên chỉ nhìn thấy mặt nghiêm khắc của quy định này, mà phải nhìn xem sự ảnh hưởng và lợi ích sau này của quy định. Như vậy, chúng ta sẽ yên tâm để tuân thủ.
Điều kiện thứ nhất:
Tại sao điều đầu tiên lại là chỉ được nghe theo lời của thầy giáo? Bởi vì khi chúng ta chưa nhập được vào học vấn chân thực thì rất có khả năng sẽ loay hoay ở trên ngọn. Các vị càng tiếp xúc với nhiều sự vật thì đến cuối cùng sẽ không tìm ra được đầu mối. Một vị thầy một con đường, hai vị thầy hai con đường, ba vị thầy thì chúng ta đứng ở ngã ba, bốn vị thầy thì chúng ta đứng ở ngã tư.
Các vị hãy xem xét thật kỹ, hãy đi quan sát, xung quanh chúng ta có rất nhiều người thích xem sách. Nhưng khi họ xem được ba năm, năm năm, các vị có phát hiện ra rằng tư tưởng của họ càng ngày càng lộn xộn? Ví dụ như có một vị tác giả nước ngoài đã viết như thế này, rồi bất chợt lại nói: “Nhưng mà tôi lại xem một quyển sách nào đó, tư tưởng của họ, quan niệm của họ không nắm được cương lĩnh của đạo đức”. Cho nên “Giáo chi đạo, quý dĩ chuyên”, dạy và học là một việc, cho nên đạo học cũng phải quý ở chữ “chuyên” mới được.
Nếu như học bốn vị thầy giáo và biến thành ngã tư đường, hơn nữa khi các vị học đã bị loạn rồi, ví dụ như các vị học được ba năm, năm năm và đã bị loạn rồi thì bắt đầu phải học lại từ đầu. Như vậy không dễ bởi vì có khi các vị còn phải mất thêm mấy năm để loại bỏ những tư tưởng sai lầm đi. Cho nên chọn thầy không thể không cẩn thận. Chọn thầy phải thật cẩn thận. Từ bài giảng trong mấy ngày hôm nay của chúng ta, các vị có cảm thấy sự quan trọng của “thận ư thủy” (cẩn thận ngay từ buổi ban đầu) không? Các vị phải có trí tuệ thì mới giúp cho con cái có thể “thận ư thủy” (cẩn thận ngay từ buổi ban đầu). Các vị có trí tuệ thì mới để cho quyết định của mình không bị thiên lệch. Cho nên người thầy mới đưa ra điều kiện thứ nhất là ngoài ông ra thì học sinh không được nghe bất kỳ một người nào khác là để bảo vệ tri kiến của học sinh.
Điều kiện thứ hai:
Điều thứ hai là những sách vở muốn tiếp xúc phải được sự đồng ý của thầy giáo, nếu không thì không được xem. Đây cũng là yêu thương bảo vệ học sinh, để cho học sinh chuyên tâm, không bị rối loạn. Bởi vì có chuyên tâm thì mới đạt được định, có định thì mới sinh trí tuệ. Cho nên điều thứ hai này cũng là để bảo vệ học sinh.
Điều kiện thứ ba:
Điều thứ ba, tất cả những điều trước đây học đều không được thừa nhận. Điều này là có dụng ý gì? Cho nên mới nói: “Người biết nửa vời lại tự cho là mình biết hết, người biết hời hợt là người khó dạy nhất”. Bởi thầy Lý muốn Ngài Tịnh Không buông bỏ hết toàn bộ, đổ hết mọi thứ đi để trong lòng được trống không, dùng một thái độ khiêm tốn, nhún nhường để thụ giáo. Như vậy mới có thể học tốt được.
Ba điều kiện trên đây có ý nghĩa rất sâu xa. Thầy tôi đã đồng ý. Kết quả khi tuân thủ được ba tháng thì trong lòng vô cùng hoan hỷ, thầy liền chạy đến nói với thầy Lý rằng: “Thưa thầy! Trong ba tháng này con đã cảm nhận được, bởi phải tuân thủ ba điều này mà tâm con càng ngày càng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới có thể sinh trí tuệ, có thể sinh cảm chiếu”. Cho nên Ngài đã nói với thầy giáo rằng: “Con không chỉ tuân thủ trong năm năm, con xin tăng lên gấp đôi”. Nghĩa là sẽ tuân thủ trong mười năm.
Khi chúng ta muốn học tập theo Thánh Hiền thời xưa thì nhất định chúng ta phải tuân thủ theo ba điều kiện này. Không được xem một số lượng lớn những tạp thư! Nhất định phải đi theo con đường cũ, nếu không có thể là “Bất thính lão nhân ngôn, ngật khuy tại nhãn tiền” (không nghe theo lời người xưa, lập tức bị thiệt thòi). Chúng ta muốn tìm thầy, muốn theo học thầy, điều cốt yếu nhất của chữ “theo” này không phải là theo bằng cái thân thể này mà là tâm phải theo. Thầy giáo dạy một câu, chúng ta phải thực hiện một câu.
Cho nên ngày xưa, giống như Mạnh Phu Tử chưa gặp Khổng Phu Tử, nhưng Mạnh Phu Tử vô cùng kính trọng và thành kính bái Khổng Phu Tử làm thầy. Tấm lòng kính trọng, chân thành của ông đã vượt qua mọi thời đại cho nên sự học cũng tương đối tốt, và được tôn là “Á Thánh”, là Thánh nhân đứng sau Khổng Phu Tử. Tư Mã Thiên cũng bái Tả Khâu Minh làm thầy, vô cùng kính trọng khi đọc “Tả Truyện”. Tư Mã Thiên cũng đi sâu vào nghiên cứu văn chương của Tả Khâu Minh. Bởi vậy ông cũng viết ra được tác phẩm vĩ đại là “Sử Ký”. Cho nên chúng ta có thể theo Thánh nhân học được tốt hay không, quan trọng nhất là phải nâng cao sự hiếu học, lòng thành kính của bản thân mình đối với Kinh điển, đối với thiện hữu, đối với thiện tri thức.
HẾT TẬP 38. XIN XEM TIẾP TẬP 39!